Suối đạo thi phẩm – Phần III: Hành đạo
Đưa tay trí tuệ tháo dây thương
Cất bước vân du trổi dặm trường
Khất thực vai mang ‘Bình Bát’ đất
Hóa duyên độ chúng khoát y vàng
KHẤT SĨ
Khất sĩ hạnh ta bà,
Tiêu diêu đường tự tại.
Không danh lợi cửa nhà,
Không của tiền con cái.
Đỡ lòng một bát cơm,
Che thân ba tấm vải.
Đầu đội nón càn khôn,
Chơn mang giày thế giới.
Cam gió nhiễm mưa chan,
Mặc mưa dầy nắng dãi,
Thân xông đục phong trần,
Trí kiên cường hăng hái.
Chẳng tranh thấp hay cao,
Sợ chi thành và bại.
Chẳng chấp dở cùng hay,
Sợ chi quấy và phải.
Chẳng phân sang với hèn,
Biết ai khôn và dại,
Ai mắng nhiếc mặc tình,
Thôi chẳng hề phiền ngại.
Ai hiếp đáp mặc lòng,
Thôi chẳng hề chống cãi.
Ai vu khống mặc dầu,
Thôi chẳng hề đối nại.
Bịnh hoạn có chập chồng,
Tâm chẳng hề cầu vái.
Tai nạn có dập dồn,
Tâm chẳng hề sợ hãi.
Nghiệp quả có chuyển vần,
Tâm chẳng hề thối thoái.
Gặp kẻ dữ trên đường,
Xót thương ta khuyên giải.
Gặp người thiện trong đời,
Cảm thông ta kết nghĩai.
Gặp nhà Đạo thoát trần,
Tôn thờ ta kính bái.
Đem một tấm tình thân,
Sống chung trong muôn loại.
Rải rắc giống từ bi,
Kết đơm hoa bác ái.
Vườn đời tươi thắm lên,
Bớt lần cây hoang dại.
Người đời yêu mến nhau,
Bớt lần dây oan trái.
Cảnh đời êm đẹp hơn,
Chẳng còn vương khốc hại.
Nguyện dựng cảnh lạc bang,
Mong lấp bằng khổ hải.
Còn một kẻ mê lầm,
Còn tấm lòng thương hại.
Còn chen lộn phong trần,
Còn tới lui qua lại.
Còn tinh tấn luôn luôn,
Độ nhơn sanh mãi mãi.
*
NỤ CƯỜI KHẤT THỰC
Thầy dạy con đi,
Du phương khuyến giáo
Con còn khờ khạo
Bạch hỏi đôi lời
– Con ơi đến nơi
Lạ cảnh lạ người
Làm sao lập hạnh
Khất thưc trì bình?
Thầy mới thuyết minh
Giải bày rốt ráo
– Nếu đi hành đạo
Khất thực phương xa
Phải đứng từng nhà
Lặng thinh trước ngõ
Người nghe tiếng chó
At bước ra chào
Hỏi trước dò sau
Tò mò tìm biết
Con bày sự thiệt
Rằng pháp tu hành
Dứt bỏ lợi danh
Trì bình khất thực
Lập công bồi đức
Chịu cực hóa trai
Chỉ độ mỗi ngày
Ngọ trưa một bữa
Tiền không chấp chứa
Gạo chẳng lãnh thâu
Ai tưởng đạo mầu
Hộ cơm hộ muối
Hoặc là cơm nguội
Trái chuối ngọn rau
Của mọn lòng giàu
Để vào bình Bát
Món dùng chay lạt
Đạm bạc thô sơ
Bố thí hiện giờ
Trồng cây duyên phước
Vun phân tưới nước
Sau được quả lành
Trong mỗi kiếp sanh
Có duyên gặp Đạo.
– Lời Thầy dạy bảo
Con nguyện gắng ghi
Lạy đức Từ bi
Con đi xa xứ.
Vầy đoàn bạn lữ
Quảy túi du phương
Chân bước lên đường
Lời ghi trong trí
Lớp lang nhớ kỹ
Của quý hộ thân
Dọn tập lần lần
Hầu đem ứng dụng
Một hôm Ni chúng
Đi đến xứ kia
Xa rốt tỉnh bìa
Người chưa biết Đạo
Đến giờ khuyến giáo
Lững thững vào làng
Y mặc nghiêm trang
Bát ôm cẩn thận
Tinh thần phấn chấn
Quyết đến mỗi nhà
Ngõ hẻm trông xa
Con đi lọ mọ
Lè kè túi đỏ
Lụng thụng áo vàng
Thấy bộ xênh xang
Trẻ thơ kinh hãi
Ùa nhau hoảng chạy
Vừa khóc vừa la:
– Ông Bị kia cà
Ối cha! Ối mẹ!
Tiếp theo đàn trẻ
Tiếng chó sủa rân
Gà vịt chạy rần
Ngỗng ngan kêu rộ
Người nhà nhao nhố
Bàn tán lăng xăng
Có kẻ nói xằng
Dối tu bỏ ngải
Có người nói dại
Tà đạo quến ma
Tiếng lại tiếng qua
Nêu ra đủ lý
Những người dạn dĩ
Bảo đến hỏi càn
Mấy kẻ nhát gan
Bảo đi trốn lánh
Có người sợ quýnh
Đóng cửa vội vàng
Tình thế rộn toang
Ngẩn ngơ ngơ ngẩn
Bấy giờ xuất trận
Một gã đàn ông
Chân bước tay vung
Coi tuồng hăm hở
Chẳng lành thì chớ
Nạt lớn một câu
– Bà Vãi đi đâu?
Làm gì đứng đó?
Bồi hồi dạ thỏ
Luống cuống chân cheo
Thầy dạy bao nhiêu
Con quên hết ráo
Tựa hồ lảo đảo
Như thể bồn chồn
Đâu mất cái khôn
Chỉ tồn cái dại
Lưỡi sao líu lại
Chẳng tiếng u ơ
Con đứng sững sờ
Trơ trơ phồng đá
Bạn con vội vã
Tiếp đỡ một lời:
– “Mô Phật chúng tôi
Xin cơm xin muối”
Chú chàng nghe nói
Thấu nỗi thiệt hư
Động tấm lòng từ
Trở vô lủi thủi
Người nhà lụi hụi
Đem hộ thức ăn
Bát lãnh đủ phần
Cúi chào xin kiếu
Bước đi líu ríu
Mừng được thoát thân
Hơi thở dịu dần
Trái tim bớt nhảy
Ban chiều hội lại
Nhắc chuyện sớm mai
Không thể nín cười
Nhát thôi quá nhát
Đầu tiên đi Bát
Gặp chuyện lạ lùng
Kinh nghiệm học chung
Viết ra thành bổn
Để làm của vốn
Cho kẻ hậu lai
Khất thực đường dài
Tập thêm can đảm.
*
LỐI ĐI
Thầy đã quyết khép mình bền khổ hạnh,
Con sao còn lung ý sánh xa hoa?
Thầy trưởng thành trong nếp áo vị tha,
Con tù hãm giữa ngôi nhà ích kỷ.
Kể từ buổi theo Thầy tầm chơn lý,
Tỏ ra người hữu chí lắm công phu.
Thầy quý con như quý ngọc minh châu,
Trau giồi kỹ được làu làu toàn bích.
Đâu ngờ mới một thời gian phân tách,
Con chẳng còn phong cách bậc tu chơn.
Nhớ nghe con, rồi trở lại nghe con,
Thầy thao thức mõi mòn trông đợi trẻ.
Con có biết hồng trần nơi xú uế,
Danh mà chi và lợi để mà chi.
Tấm huyễn thân rồi nữa có ra gì,
Một vật giả chứa đầy chứa muôn thứ giả.
Con xây cất một lâu đài huyễn ngã,
Nền lung lay mà từng đã nhiều từng.
Phước càng dồn nhưng thiếu đức đỡ nâng,
Hoạ càng nặng trăm thân khôn chống chỏi.
Con có nhớ những ngày còn học hỏi,
Nương chân Thầy khất thực dõi đường xa.
Trời làm màn, đất chiếu hạnh Ta Bà,
Thân khoẻ nhẹ cảnh thơ lòng giải thoát.
Con có nhớ những ngày đương hoằng Pháp,
Giảng Đạo mầu giải đáp lý uyên thâm.
Khêu đèn duyên, dẫn lối kẻ đương lầm,
Đánh trống huệ thức tâm người cõi mộng.
Con có nhớ, lý “động” cùng “bất động,”
Biển chơn như nước và sóng khác đâu.
Vẫn vào đời nhưng chẳng bị đời câu,
Đâu cũng Pháp và đâu đâu cũng Pháp.
Thầy vạch sẵn con mau sang lối thoát,
Trương đại tâm Bồ Tát phát lời nguyền.
Dân Việt Nam còn đau khổ triền miên,
Trong cảnh khổ con xin nguyền cứu khổ.
Trong đêm tối con khêu đèn giác ngộ,
Trong hãi hùng con giải khổ âu lo.
Trong đói nghèo con tạo cuộc ấm no,
Tuỳ phương tiện chuyển vai trò theo cảnh.
*
SỨC CHỊU ĐỰNG
Sức chịu đựng ai bằng quả đất
Để trần gian chứa chất nặng nề
Hỡi rừng, hỡi núi, hỡi khe
Hỡi cây, hỡi đá, hỡi xe, hỡi thoàn
Cam chịu đựng muôn vàn sức nặng
Chất bao nhiêu quyết chẳng nản lòng
Vì đời âu phải gia công
Vì đời âu phải gánh gồng bọc bao
Người dẫn chúng khác nào quả đất
Để chúng sanh chất chứa nặng nề
Hỡi ganh, hỡi ghét, hỡi bì
Hỡi phiền, hỡi hận, hỡi si, hỡi lầm
Cam chịu đựng muôn vàn sức nặng
Chất bao nhiêu quyết chẳng nản lòng
Vì đời âu phải gia công
Vì đời âu phải gánh gồng bọc bao
Người dẫn chúng thiên lao vạn khổ
Nợ trăm dâu thảy đổ đầu tằm
Đời vô minh nghiệp oái ăm,
Oằn vai một gánh xa xăm đường dài
*
VI NHÂN NAN
(Kiếp sau xin chớ làm người
Làm dân đất Phật sống đời hoàng kim.)
Nay mới biết làm người thiệt khó
Bốn mươi năm mới rõ tình đời
Làm người khó lắm ai ơi!
Thấp cao khó liệu, đầy vơi khó lường
Ơ cho được người thương đã khổ
Khi ghét rồi, ôi! khó biết bao!
Cửa thiền mượn muối vay rau
Làm dâu trăm họ sao sao cũng chiều
Ví tự túc ít nhiều tự sắm
Dẫu áo thô cơm hẩm mà vui
Tàng cây hốc đá thảnh thơi
Núi rừng thanh vắng chiều mơi tịnh nhàn
Nhưng đã trót lên đàng cứu khổ
Dẫu gian truân dễ bỏ nguyện lành
Mặc cho nghiệp chướng hoành hành
Chẳng qua tiền kiếp phận mình vụng tu
Duyên đã ngộ tìm câu giải thoát
Nghiệp còn mê chấp pháp hữu vi
Pháp môn bành trướng duy trì
Cỡi thuyền lướt sóng phải vì sanh linh
Lâm cảnh khốn lên gành xuống thác
Vững tay chèo hỡi các đệ huynh
Giòng mê kíp hoá giòng thanh
Thuyền khơi quyết đổ bến lành Tây Phương.
*
BẠC HẠNH
Trái còn non, đắng the chua chát
Trò còn non, phụ bạc công Thầy
Những còn trứng nước thơ ngây
Đút cơm mớm sữa ai tày khó khăn
Cảnh eo hẹp thức ăn nghèo túng
Món tinh thần chưa xứng cho con
Con đi lạ nước xa non,
Cảnh xưa Thầy ở thon von tháng ngày
Cây trăm thước vì ai toả bóng
Hoa bốn mùa nuôi mộng chờ ai
Người đi ánh sáng đi rồi
Người còn ở lại bầu trời tối tăm
Ngày trở lại viếng thăm chùa cũ
Mảnh hình hài ủ rũ thê lương
Thầy ơi con đã lầm đường
Đắng cay buốt lưỡi gió sương nhuộm hình
Ngọc chéo áo vô tình chẳng biết
Cam chịu nghèo rên xiết khổ đau
Mặt trời ở tại đỉnh đầu
Mặt trời nào phải xa đâu kiếm tầm
Tâm vốn sẵn chơn tâm thanh tịnh
Tánh cội nguồn pháp tánh viên minh
Cam tâm làm phận chúng sanh
Trở về ngôi cũ biết mình thuở xưa
Thầy lặng lẽ thờ ơ khôn tỏ
Trò giựt mình xem rõ căn nguyên
Thì ra Thầy đã nằm yên!
Thiên thu vào cõi định thiền tiêu dao!
*
HÀNH ĐẠO (1)
Đưa tay trí tuệ tháo dây thương
Cất bước vân du trổi dặm trường
Khất thực vai mang bình bát đất
Hoá duyên độ chúng khoát y vàng
Rưới mưa bác ái thuần ba cõi
Soi đuốc từ bi rạng bốn phương
Nguyện lực đem thân hành chánh Đạo
Cho đời sớm tỉnh giấc hoàng lương.
*
HÀNH ĐẠO (2)
Xả phú cầu bần quen cảnh khó,
Lập thân hành đạo ngược dòng đời.
Kỉnh trời đầu đội tấm màn trời,
Mến đất thân kề manh chiếu đất.
Nhẹ gót lìa xa đường vật chất,
Mau chơn bước đến nẻo tinh thần.
Bộ y ba lá tạm che thân,
Quả bát mỗi ngày vừa đủ dạ.
Chỗ ở sơ sài am lợp lá,
Bịnh đau lây lất thuốc người cho.
Lợi danh giải thoát khỏi phiền lo,
Tâm trí rảnh rang nào trói buộc.
Chẳng tưởng một ai riêng quyến thuộc,
Nhìn vào thiên hạ chúng sanh chung.
Mối mang, cương toả thoát ngoài vòng,
Dây vấn luân hồi đà cắt đứt.
Khất sĩ Pháp tu noi hạnh Phật,
Xuất gia lý đạo diệt tâm phàm.
Một phen về đến chốn Già Lam,
Bao thuở vãng hồi nơi thế cuộc.
Mượn lại tấm thân làm ngọn đuốc,
Soi ra ánh sáng tỏ đường về.
Thanh bần kém thể chẳng bao nề,
Khất thực nêu gương không uế nhiễm.
Phẩm hạnh siêu luân đời khó hiếm,
Dung nghi thanh tịnh thế khôn tìm.
Ngồi, nằm, đi, đứng thể trang nghiêm,
An, mặc, nói, làm hằng thận trọng.
Thuyết Pháp gọi đời mau tỉnh mộng,
Viết vài khuyên chúng ráng cần tu.
Tham thiền nhập định chí công phu,
Pháp huệ đắc chơn hầu hoá độ.
Tiếp dẫn chúng sanh qua biển khổ,
Dắt dìu muôn loại đến bờ xưa.
Đạo tràng Giáo hội chiếc thuyền đưa,
Trì giới cần tu chư Phật rước.
Rẽ sóng tình thương tinh tấn lướt,
Cắt dây luyến ái nhẹ nhàng bay.
Lòng trần khoảnh khắc tỉnh mơ say,
Đèn huệ tuyên dương bừng rạng tỏ.
*
LỚP HỌC TÌNH THƯƠNG
Tuổi ngọc ngày xanh hứa hẹn nhiều
Ai làm, em chịu cảnh đìu hiu
Cháo rau hẩm hút buồn năm tháng
Bô vải te tua thảm sớm chiều?
Chiều sớm lang thang giữa bụi đường
Nón cời đầu đội, túi vai mang
Giấy dơ, tay góp, bao dơ lượm
Đống rác em coi tợ đống vàng
Hoàn cảnh xui em tánh thấp hèn
Chưởi thề trộm cắp tập thành quen
Thiếu nhi phạm pháp đầy nguồn gốc
Xã hội tương lai đó nhiễu phiền?
Lớp học tình thương phép diệu huyền
Luyện rèn đức trí, chuyển tâm em
Trường nghèo hân hạnh trò ngoan giỏi
Nhà khó mừng vui trẻ thảo hiền!
*
BỒ TÁT CHÚNG SANH
Bồ Tát từ bi nguyền độ chúng
Chúng sanh mê muội chẳng trau lòng
Phật Đà diệu giác từng soi thấu
Bồ Tát nhơn sanh một tánh đồng
Bồ Tát chúng sanh danh tạm có
Chơn như liễu ngộ gốc hoàn không
Giác cùng bất giác nào riêng ngỏ
Mê với không mê chỉ một dòng
Niệm ngộ còn tâm, tâm chưa tỏ
Hườn chơn chẳng biết, biết toàn thông
Duyên đưa cửa Phật căn lành có
Trí hội cơ mầu Pháp thiệt không.
*
THẢM ĐẤT VÀNG
Xưa trưởng giả trải vàng mua đất
Vì Thế Tôn xây cất Đạo Tràng
Kỳ Viên Tịnh Xá mở mang
Kinh thành Xá Vệ huy hoàng Pháp đăng
Nay thiện tín trải vàng mua đất
Vì tăng ni xây cất Đạo tràng
Ngọc Châu Tịnh Xá mở mang
Quảng Nam tỉnh lỵ huy hoàng Pháp đăng
Đất một thảm, lòng vàng muôn thảm
Của một cân, công trạng ngàn cân
Vật thô sức kém góp phần
Nhịn ăn, nhịn mặc, nhịn lần tiêu pha
Xây Tịnh Xá một toà rộng rãi
Dựng cốc am mấy dãy an bày
Thênh thang sân rộng lối ngay
Rào trong đất Phật, ngõ ngoài đường quan
Phật thị hiện Đạo Tràng cứu khổ
Tăng thừa hành thập độ ban vui
Chư Thiên vì Pháp đắp bồi phước duyên
Phước bồi đắp nên miền ngọc cảnh
Phước trồng gieo thành khoảnh kim điền
Dòng đời biển tội vô biên
Bước lên non phước vững yên tinh thần
Hỡi Phật tử đồng tâm hội hiệp
Dưới Phật đài hoà nhịp từ bi
Điển lành ban rải đâu đây
Y lành hấp thụ vui vầy gần xa
Tay quét đất, tay hoà cõi phước
Chân giẫm nền, chân bước đường duyên
Miệng cười nở đoá hoa sen
Lời lành ý đẹp, hương duyên thơm nồng
Tâm cởi mở, nhơn trong nghiệp trắng
Đạo trau giồi, phước gắng ân ghi
Chướng duyên dẫu chẳng tây vì
Đem ân đáp oán, đổi Bi ra Từ
Tâm từ ái thể như tâm Phật
Trải tâm từ tế vật độ nhân
Tâm là chỗ ở tinh thần
Tâm là miếng đất nương thân muôn loài
Tâm ví chẳng dung người tội lỗi
Đất kia còn sạn sỏi gai chông
Đất chưa phải thật vàng ròng
Lòng chưa phải thật tấm lòng từ bi
Tâm tạo nghiệp, nghiệp trì thọ khổ
Tâm phát nguyền, nguyền độ thoát mê
Oai hùng nghiệp lực chỉnh ghê
Oai thần nguyện lực Bồ Đề cứu an.
*
ĐÈN CHƠN LÝ
Đèn chơn lý trời Nam tỏ rạng
Anh triêu dương chiếêu sáng phương Đông
Nhơn sanh bừng tỉnh giấc nồng
Mắt nhìn đẹp mắt, nguyền mong phỉ nguyền
Nối đuốc tuệ ban truyền giáo lý
Trổ Hoa Đàm Khất sĩ du phương
Giới diều trong suốt nền gương
Định châu lấp lánh, tuệ hương ngạt ngào
Trường Giáo hội tiêu dao cực lạc
Kẻ vãng sanh giải thoát hồng trần
Thung dung cảnh giới tinh thần
Trau tâm giồi trí, sắc thân chẳng màng
Mượn thân tạm lên đàng cứu khổ
Để khách trần làm chỗ dựa nương
Bàn tay tứ sự cúng dường
Gieo duyên giải thoát, dọn đường tương lai
An thanh đạm mỗi ngày một bữa
Xin vật thường của dở nuôi thân
Không dành dụm, khỏi nhọc nhằn
Một điều giải thoát, mấy phần cao thâm
Mặc đơn giản mỗi năm một bộ
Lượm vải thừa giẻ bỏ kết y
Không xinh tốt, khỏi kiêu kỳ
Hai điều giải thoát, ba Y thanh bần
Ở luân chuyển sáu trăng một khoá
Khi gốc cây, Tịnh Xá tuỳ duyên
Không lưu luyến, khỏi ưu phiền
Ba điều giải thoát, các miền vân du
Bịnh thong thả mựa cầu phương chước
Tự lòng người miếng thuốc gieo nhân
Không kiều dưỡng, khỏi băn khoăn,
Bốn điều giải thoát, mười phần thanh cao
Thân giải thoát, thân trau giới luật
Tâm tịnh thanh, tâm đạt định thiền
Trí minh, trí chiếu tuệ viên
Tánh an, tánh hiện diệu huyền chơn như
Rừng mê chướng thâm u ngàn lối
Đạo Bồ Đề một cõi minh quang
Đưa đường giải thoát trần gian
Ngọn đèn chơn lý trời Nam sáng bừng.
*
KHÊU ĐÈN CHƠN LÝ
Hội Khất Sĩ bền gan khổ hạnh
Bữa đói no ấm lạnh bao nài
Du phương rày đó mai đây
Đỡ lòng cơm hẩm gốc cây hành thiền
Buổi sơ khởi não phiền không ít
Lời phẩm bình chỉ trích lăng xăng
Đuổi xô chia rẽ đón ngăn
Lâng lâng tâm cảnh khăng khăng chí nguyền
Tự ví thể con thuyền chèo chống
Từ rạch cùng thông thống ra khơi
Lạch ngòi sông cái xa xuôi
Mênh mông biển cả, vơi vơi nước triều
Tu cho mở giáo điều vẹn vẻ
Tu cho người thực tế nương thân
Quên mình hộ quốc an dân
Hoà mình đại thể tinh thần bao la
Chừng độc lập quốc gia thống nhứt
Thảnh thơi rèn kiến thức văn minh
Góp phần phiên dịch kệ kinh
Góp phần tranh đấu hoà bình vĩnh miên
Xin khêu rạng ngọn đèn công lý
Sáng soi ai hữu chí cánh thành
Lợi quyền nghĩa vụ phân minh
Công lao có thuỷ, nghĩa tình có chung.
*
TRĂNG ĐẠO
Trăng bủa đức vì đâu chiếu sáng?
Phải chăng vì sứ mạng thiêng liêng
Thường đời mù mịt tối đen
Hoá thân làm một ngọn đèn sáng trưng?
Rải minh tuệ bao trùm sông núi
Phóng hào quang chói lọi nước mây
An nhuần nội cỏ ngàn cây
Đức nhuần sanh loại tỉnh say giấc hoè
Ai chẳng muốn gần kề ánh sáng
Ai chẳng mong nương áng tuệ lành
Trăng từ siêu thoát cao minh
Lòng từ quan cố chúng sanh ân cần
Không phân biệt kẻ bần người phú
Không nại hà biển khổ rừng mê
Thị thành, thôn ấp, sơn khê
Lui lui, tới tới, về về, đi đi
Vắng ánh tuệ sầu bi muôn kẻ
Lộ bóng vàng vui vẻ cùng nơi
An hồng chăm chút săm soi
Ban vui dẹp khổ, ban tươi dẹp sầu
Đuốc ánh tuệ làu làu rạng tỏ
Hoa Đàm gương rỡ rỡ tươi xinh
Trí thần phổ chiếu viên minh
Sáng soi bến tục, tịnh thanh cõi phàm
Vì muôn chúng đành cam nhọc khổ
Chẳng riêng mình tìm chỗ nghỉ ngơi
Đông, Tây lặn lội đòi nơi
Tấm thân dầu dãi khi vơi khi đầy
Trăng rộng bủa đức dày tiết rạng
Mây bỗng dưng kết thảm giăng sầu
Huy hoàng đã hoá thâm u
Thân đành mai một, nghiệp dầu phủ vây
Nào chấp kẻ trí ngây phận nhỏ
Những thương ai lấp ngõ ngăn đàng
U minh dễ lấn hào quang
Lành bền ngôi vị, dữ tan lũ bè
Lâm cảnh khó không hề nản chí
Giữ mực thường nhứt trí lợi sanh
Lòng vàng bủa đức hy sinh
Tuệ vàng rải ánh quang minh cho đời
Dầu lấy nước biển khơi làm mực
Lấy cây rừng làm bút viết văn
Luận đề như cát sông hằng
Cũng chưa giải hết ý trăng nhiệm mầu
Lòng kính cẩn khấu đầu đảnh lễ
Đức từ bi trí tuệ rải ban
Nguyện xin nương ánh từ quang
Nguyện xin thành bóng trăng vàng chiếu soi.
*
CHUYẾN ĐI THỦ THỪA
Thủ Thừa quận tôi lâu về đó quá!
Sáu năm trường không để bước viếng sang
Cuộc viễn du lo ban rải ánh vàng
Mà quên sót chỗ đầu tiên mở Đạo
Nay Giáo Hội tựu về đông đảo
Dịp trai tăng một thí chủ xuất gia
Ngắm cảnh xưa mà lòng những thiết tha
Nầy di tích buổi ban sơ đơn giản
Nầy nền tháp kém uy nghiêm huê dạng
Nhưng chứa đầy ý nhị biết là bao
Ghế hoa sen nét vẽ đã phai màu
Nầy buổi trước đức Tôn Sư ngự toạ
Vật “tồn cổ” ôi muôn vàn quý hoá
Gợi lòng tôi sống dậy mấy năm xưa
Buổi Tôn Sư khai Đạo tại Thủ Thừa
Rồi lê gót đi khắp nơi nhiều chỗ
Nhìn vật cổ chạnh nhớ sang người cổ
Vật cổ đây mà người cổ đi đâu
Tôn Sư ơi! Công khó nhọc dãi dầu
Rồi chung cuộc, ôi tấm thân thọ khổ.
*
CHUYẾN ĐI DẦU TIẾNG
Đất Dầu Tiếng vùng cao nguyên rừng núi
Vườn cao su kế tiếp rộng thinh thinh
Lạ lùng thay rừng nhân tạo đẹp xinh
Muôn ngàn dãy cây ngay hàng thẳng lối
Tàn che phủ kẽ thưa xen nắng dọi
Sáng chập chờn như ảo ảnh lung linh
Không bóng người rừng vắng ngắt lạnh tanh
Liên tưởng đến đường mơ nơi cõi lạ
Sáng khất thực trưa vào rừng thong thả
Độ ngọ rồi nằm nghỉ dưới tàn cây
Lòng lâng lâng thanh nhẹ tựa chòm mây
Không dính dáng cuộc trần ai hệ lụy
Nhìn núi Điện ở phương xa hùng vĩ
Lòng nao nao nguồn rung cảm kính tôn
Đấng uy linh thiên hạ vẫn vang đồn
Một đức sáng hiển dương cho phái nữ
Và núi cậu cũng chiếm phần vinh dự
Cũng trang nghiêm một dãy trập trùng sơn
Lòng dám đâu tính kém cõi so hơn
Thảy quý chuộng đức rộng to cả thể
Ôi rừng núi cảnh thiên nhiên đẹp đẽ
Sống nơi đâu khoẻ nhẹ cả thân tâm
Vừa độ sanh, vừa gần gũi sơn lâm
Để tu tập tánh tình chơn thiện mỹ.
*
CHUYẾN ĐI VĨNH CÔNG
Bà Ánh Ngọc thỉnh Sư về xóm Vĩnh
Nhận lời xin Giáo Hội nhóm đi đông
Xuống xe rồi tẻ bộ quảng đường đồng
Giữa thảm lúa xanh vàng xem đẹp mắt
Bà quýnh quáng không đi ngay đường tắt
Dắt cả đoàn vô xóm vắng quanh co
Lộn đi rồi lộn lại cứ vòng vo
Đi đi mãi mỗi người đều mệt lả
Còn hú hí làm cười vang tất cả
Nghĩ thương Bà lo quá hóa lăng xăng
Về đến nhà lòng nôn quýnh càng tăng
Vì thỉnh bát mà cơm chưa có nấu
Cũng nhờ sẵn có đông người bạn đạo
Đồng ra tay chia sớt việc cùng nhau
Nấu cơm rồi sớt Bát thật là mau
Đọc kinh kệ vẹn tuyền xong tất cả
Chuyên đi ấy thật là vui vui quá
Bận trở về lộ thẳng cứ đi ngay
Hai bên đường công gặt thảy dừng tay
Đưa mắt ngó đoàn lữ hành mãi miết
Một cảm tưởng của người cầm bút viết
Thương nhà nông cặm cụi nhọc thân hình
Gặt lúa vàng rồi lại cấy lúa xanh
Đâu rỗi rảnh mong lên đường giải thoát
Nhưng xét nghĩ về bên lề sinh hoạt
Không nhà nông ai nuôi sống dân tình
Cả tấm thân tu sĩ của chúng mình
Thảy nhờ cậy bàn tay người nông nghiệp
Rồi rộng xét trăm nghê đều tươi đẹp
Đeù lại qua trao đổi với nhau thôi
Cõi sống đời một nhịp sống hòa vui
Ta chung sống trong cõi này Cực Lạc.
*
HỘI NGỘ MỪNG ĐOÀN ÁO TRẮNG
Nghe thiện tín đã bao phen trông đợi
Khiến lòng tôi như bức rứt không an
Ngày về đây nguồn thương cảm chứa chan
Nhìn ai nấy nét mừng hoà giọng tủi
Đường giải thoát tôi cần cù giong ruổi
Có ngờ đâu còn vương vấn dư hương
Để muôn người tha thiết một lòng thương
Phương trời ấy biết bao người tưởng vọng
Nay đã bỏ lúc ngày đêm trông ngóng
Ta cùng nhau sum hiệp chốn đạo tràng
Đọc kinh đi cho tâm trí nhẹ nhàng
Nghe Pháp để nhuận tinh thần tươi tỉnh
Cùng trao đổi câu ngâm nga khúc vịnh
Trổi nhạc lòng hoà muôn điệu du dương
Vườn hoa thơ đầy diệu sắc kỳ hương
Hòn núi ngọ đủ thiên trân vạn bửu
Thiện tri thức hỡi ai người pháp hữu
Phải chăng đây cõi thế giới diệu huyền
Phải chăng đây người cốt Phật căn tiên
Nay tái diễn một cuộc đời muôn thuở.
*
ĐÊM TRĂNG Ở SÀI CA NẢ
Sài Ca Nả xóm người Miên tỉnh Sóc
Chúng tôi đi một cuộc lữ hành gần
Trời về chiều Ni chúng tạm dừng chân
Ghé xóm rẫy mượn màn trời chiếu đất
Chim về tổ vần hồng đà chen khuất
Chúng tôi vào rẫy trống rộng thinh thinh
Đất phẳng bằng cỏ mịn tựa nhung xanh
Vuông bốn phía vòng thành tre bao bọc
Sương chiều xuống cỏ nhung sanh ngậm ngọc
Trăng vàng lên lấp ló ngọn tre cao
Ngọc kim cương phản chiếu ánh vàng sao
Ôi! Mặt đất trải đầy châu báu lạ
Đêm trăng ấy sao lòng tôi vui qúa
Chúng tôi ngồi yên tĩnh ngắm trăng lên
Trăng đêm Rằm, gương tròn trĩnh dáng duyên
Trăng lữ thứ vì chúng tôi soi bước
Trăng niềm nở đón đưa và tiếp rước
Tôi vẫn còn bạn quý của trăng xưa
Trăng ôi trăng chung thuỷ tự bao giờ
Trăng chẳng nệ thời gian tròn với khuyết.
*
BUỔI SÁNG Ở SÀI CA NẢ
Sáng tinh sương cỏ còn đeo nhẫn ngọc
Tôi ngồi trên phiến gỗ dựa tàng cây
Trời trong xanh không gợn một làn mây
Màu xanh đẹp như đúc bằng ngọc thạch
Bầu không khí của đồng quê trong sạch
Tôi hít vào hai lá phổi nở nang
Thân tâm tôi cảm thấy rất nhẹ nhàng
Tôi hăng hái yêu đời và thích sống
Nhìn vạn vật dưới trời mai hoạt động
Vầng thái dương tròn trĩnh hiện phương đông
Bãi cỏ xanh sương lóng lánh ánh hồng
Nhạc tạo hoá trên cành chim rúi rít
Gió phưởng phát ngàn cây xanh nhúc nhích
Như cựa mình sau giấc ngủ mê say
Thức tỉnh đi này buổi sáng ban mai
Mọi người thảy bắt tay vào phận sự
Tôi cũng vậy, tôi ngồi đây tư lự
Trí suy tầm pháp lý mở mang thêm
Ráng sức mình cuốn vẹt bức màn đêm
Cho được thấy ánh nhựt hồng tỏ rạng.
*
NƯƠNG BÓNG TRĂNG
Đặt bút viết giữa hồi trăng chiếu rạng
Dòng cảm này mong tỏ sáng như trăng
Kẻ được xem như gặp được cô Hằng
Tâm hồn đẹp như ánh trăng huyền diệu
Để ai được nương theo hoà nhịp điệu
Cất cánh hồng phiêu diễu tận không gian
Lững lơ buông muôn trượng guộng tơ vàng
Lặng lẽ ngắm nhơn gian chen ánh sáng
Đêm báo hiệu cuộc đời đầy hỗn loạn
Mong vừng trăng bát nhã toả hào quang
Đưa muôn loại qua bước đàng nguy khốn
Trăng xuất hiện ở cùng nơi khắp chốn
Không vì ai cũng chẳng phụ lòng ai
Mặc dầu ai có khước từ chê bai
Trăng cũng vẫn là trăng bao thế hệ
Hồi tưởng lại những người anh chị trẻ
Bốn phương trời đang cảm nghĩ gì đây
Có sẵn sàng đón rước chuỗi ngày mai
Hay áo não thở dài trong đêm tối
Có nhận thức nẻo đời muôn vạn lối
Mà con đường hướng thượng mới là xinh
Sống cho ai đâu phải sống cho mình
Vươn sức sống để đạt thành thuật sống
Thuyền lướt giữa ba đào gầm chuyển động
Vững tay chèo trong khí dũng hiên ngang
Ba đào cần dũng lực để tranh đương
Ba đào mạnh, hay hiên ngang sức mạnh?
Ta phải sống lấy tình thương làm cứu cánh
Tế độ làm phương tiện để trau tâm
Đối tượng là đau khổ của thế nhân
Ta phải sống trong tinh thần lý tưởng
Trăng đã sống, để chan hoà ánh sáng
Vì bóng đêm trăng biến tướng làm đèn
Cõi thế trần đương dày đặc bóng đêm
Ta phải sống như đèn trăng hiện tướng
Lòng thương phải phân chia ra muôn hướng
Người nương trăng, trăng sáng để cho người
Trăng với người ai có thể tách rời
Gom sức sống dựng xây nền Cực Lạc.
*
VỊNH HẠ LONG
Ngàn vạn hòn như thiên binh vạn mã
Dàn trận đồ sừng sững đá thiên nhiên
Đảo như gà, cá, đảo tựa buồm thuyền
Muôn ngàn hình trạng huyên thiên trác tuyệt
Ôi tạo hoá cảm tình dân tộc Việt
Tặng món quà diễm tuyệt đại kỳ quan
Biển trong xanh dìu dặt nắng phơi vàng
Tàu êm ái nhịp nhàng cơn sóng nhẹ
Biển liền biển, hòn nối hòn, vô số kể
Mỗi dạng hình mỗi nét vẻ thiên nhiên
Ngàn cánh tay nghệ thuật của quần tiên
Thi chạm trổ, thi do huyền biến hoá
Đảo lại đảo đều đều như tất cả
Không quá to quá nhỏ khác xa nhau
Bàn tay ngà, rải ngọc luyện giồi châu
Cõi điện ngự với loan chầu hạc múa
Rồng xuống vịnh vẫy vùng cùng tắm rửa
Hoá nước non muôn thuở cảnh thần tiên
*
VỊNH CHÙA NGỌC BỬU
Chùa tranh một mái đỉnh non xa
Giữa cảnh thiên nhiên đẹp đẹp là
Mỗi phiến đá xinh riêng nét lịch
Từng chòm mây gấm điểm thêm hoa
Xanh om cổ thụ tàng duyên dáng
Trắng xoá tràng giang nước lập loà
Ngọn gió thanh lương vừa thổi nhẹ
Bao nhiêu phiền não thảy tiêu ma
*
VỊNH THÍCH CA PHẬT ĐÀI
Dốc thượng quanh co dưới Phật Đài
Lâng lâng gió lộng sạch trần ai
Đất thiêng huyền diệu vào bia sử
Xá Lợi tôn nghiêm giữa biển trời
Tháp bảo nguy nga non trạc trạc
Dục tình biển thẳm nước vơi vơi
Địa linh nhân kiệt tìm noi dấu
Hoá kiếp từ bi giác ngộ đời
*
CẢNH TỊNH XÁ NGỌC QUANG
Khu vườn bã đậu lá xanh xanh
Đối cội giao tàng lợp mái tranh
Cất bước khoan thai vừa ngắm nghía
Tưởng đâu lưới Pháp Phật giăng thành
Bước sang qua một nhịp cầu xinh
Hai lớp rào ngăn cõi tịnh thanh
Tịnh xá trang nghiêm đơn giản gọn
Có chiều thanh lịch vẻ quang minh
Cốc nhỏ vài ba nóc lợp tranh
Tàng tre tha thướt lá tươi xanh
Y vàng phơ phất Tăng lui tới
Bức hoạ người thanh giữa cảnh thanh
Đây hòn núi đất điểm phô duyên
Sừng sững Bồ đề mọc chót trên
Lá mướt xanh tươi khua tiếng gió
Như cùng reo khúc nhạc thần tiên
Hồ rộng vươn mình ngắm núi cao
Lá xanh sen đỏ điểm tô màu
Ban ngày thấp thoáng chòm mây bạc
Đêm tối lung linh bóng nguyệt chào
Ngắm cảnh ai người dạ thích ưa
Ai người chạnh nhớ chủ nhân xưa
Bàn tay xây dựng công trình ấy
Rồi để cho ai hưởng phước thừa.
*
ĐỀ ẢNH ĐỨNG DƯỚI GỐC CÂY DẦU
(Tại ao Bà Om – Vĩnh Bình)
Một mình đứng giữa chốn rừng xanh
Tự hỏi có nên lánh thị thành
Đáp lại cảnh nhàn ta vẫn mến
Nhưng còn phận sự với nhơn sanh
Bởi còn phận sự với nhơn sanh
Phải bước chân đi khắp thị thành
Biết đến bao giờ trọn nhiệm vụ
Trở về an hưởng cảnh rừng xanh
Thôi đừng mơ tưởng cảnh rừng xanh
Ích kỷ làm sao Đạo được thành
Sanh chúng lâm vào cơn tử bệnh
Đang chờ phương thuốc cứu hồi sanh.
*
CẢNH NHÀN
Duyên khách thong dong hạnh khách nhàn
Căn lành hội ngộ chốn nhân gian
Châu tuyền thi pháp phô trương thắm
Cao diệu tâm kinh rạng sắc vàng
Tăng, tục phân chia đường tịnh cấu
Hiệp ly lẫn lộn nét bi hoan
Chút lòng nhắn gởi câu thân thiết
Đèn huệ năng khêu chớ để tàn!
II
Cảnh nhàn hay bởi tại người nhàn?
Tạo cõi siêu trần giữa thế gian
Rợp bóng từ bi cây rậm lục
Phơi màu bác ái áo tươi vàng
Soi gương trí tuệ lòng thông suốt
Nhuận nước cam lồ sắc hỷ hoan
Chánh đạo Bồ đề xưa một cội
Hai ngàn năm rưỡi gốc chưa tàn.
*
GIÁO PHÁP ĐẠI ĐỒNG
Giáo lý tuyên dương rạng bóng đèn
Pháp đăng khai huệ nở hoa sen
Đại duyên thức tánh lên bờ giác
Đồng hoá đạo tâm trước ánh đèn
Phổ vọng từ bi vang tiếng nhạc
Thông mùi bác ái ngát hương sen
Thế gian thoát khổ đời an lạc
Giới luật truyền lưu tỏ ngọn đèn
*
CẦU PHẬT RA ĐỜI
Cầu nguyện kim quang rạng bóng đèn
Phật vương giáng thế ngự toà sen
Ra ơn giáo hoá khai nguồn đạo
Đời loạn u minh gặp ánh đèn
Thế thượng rộng đường soi đuốc tuệ
Giới điều nhiều cánh kết bông sen
Bình hoà thiên hạ gương hiền đức
Yên ổn tịnh thanh dưới ngọn đèn
*
PHÁP ĐĂNG CHƠN LÝ
Rừng đời bao phủ tấm màn đen
Rực ánh quang minh chiếu bóng đèn
Thức giấc mê ly hồi rộn rã
Rọi đèn giác ngộ bước đua chen
Tinh thần gió lạ rao rao ngọn
Vật chất hương nồng tản tản men
Mở mắt muôn loài mau tỉnh mỉnh
Xa gần lan khắp tiếng đồn khen
*
LIÊN HOA GIÁO HỘI
Nước trần cặn cáu gợn sình đen
Vượt khỏi bùn lầy trổ đoá sen
Lá pháp xanh đưa làn biếc trải
Nhuỵ tâm vàng điểm cánh hồng chen
Lên đường giải thoát nêu gương huệ
Độ kẻ trầm luân tỉnh giấc men
Kìa đoá Ưu Đàm ai gặp gỡ
Không căn thành Phật cũng duyên tiên
*
LÀM ĐẤT
Thi phú văn chương dẹp lại rồi
Xúm nhau làm đất cực mà vui
Kẻ đào, kể hốt người khiêng gánh
Nơi cuốc, nơi bang chỗ đắp bồi
Đảo hải vi sơn bài chửa thuộc
Phá điền lập tự đất thành ngôi
Bên đường quan khách dừng chơn ngợi
Vóc yếu hình gầy giỏi quá thôi
*
CHUYỀN ĐẤT
Bốn chục Ni Cô một sắc vàng
Thành hình chữ nhất đứng giăng ngang
Chuyền phước quả bồi bồi liên tiếp
Bắt bắt cơ duyên hứng lẹ làng
Vội vã nghiêng mình nâng diệu Pháp
Xăn văn ngửa mặt chuyển thần quang
Xa xa nhìn ngắm xem tương tựa
Vẫy móng kim long uốn nhịp nhàng
*
LO LƯỜNG
Mưa nắng bùn lầy thấy khổ công
Rưng rưng ứa lệ ngẩn ngơ lòng
E rồi lỡ cuộc trơ tay trắng
Thức mãi thâu canh đổ luỵ hồng
Thương bấy vai mềm gồng gánh cứng
Xót vì chữ sắc buộc người không
Thiên nhơn sao chẳng ra nâng đỡ
Để tớ sầu than tiếng não nồng
*
GỌI BẠN
Khí lành đất tốt đẹp tình người
Danh đã hư mà lợi cũng hư
Thị Vải hiền hoà chim ríu rít
Đồng Nai duyên phước tạo vun bồi
Lòng không gió thoảng trần ai lặng
Mây lững trăng thanh trí tuệ ngời
Muôn rạch trăm giòng xuôi bến giác
Ngọc Thiền gọi bạn định thiền ơi!
*
KHAI BÚT
Tiếng pháo mừng xuân khắp đó đây
Xuân sang Mậu Tuất thảy vui vầy
Thái hoà vũ trụ hoà mưa gió
Thấm nhuận sơn hà nhuận cỏ cây
Nghiệp dữ buông rời nhơn đổi sửa
Đức lành gom kết phước vần xoay
Đạo chơn phổ biến trời Nam Việt
Tế độ quần sanh kịp hội nầy
*
KỶ DẬU CẢM TÁC
Tiếng gà óng ỏi dậy non sông
Rạng rỡ năm châu ánh Lạc Hồng
Văn hiến ngàn năm tươi cội Việt
Võ công muôn thuở chói vừng Đông
Anh hùng dân tộc chung bồi đắp
Liệt nữ giang sơn cũng gánh gồng
Một cõi gấm hoa xương máu dệt
Dễ ai tráo chác dễ đèo bồng
*
KHO TÀNG VÔ TẬN
Dưới biển trên non giữa mái thiền
Nửa phần cốt Phật nửa căn tiên
Đất lành gieo giống tươi quỳnh uyển
Nước diệu ngâm mình dứt bịnh duyên
Trong sáng bao la trời trí huệ
Thung dung giải thoát Đạo siêu huyền
Kho tàng vô tận ngàn mây gió
Đại thí vô vàn khó lượng biên
*
MỪNG XUÂN QUÝ HỢI
Mừng xuân Quý Hợi chúc Ni sanh
Đại nguyện hoằng dương Đạo đắc thành
Học vấn trau giồi gương trí huệ
Ghét ganh đào thải gốc vô minh
Từ bi chất ngất nền công đức
Nhân nghĩa bằng san hố bất bình
Kết cánh liên hoa hoà hội chúng
Đường về bến giác rộng thinh thinh
*
XUÂN VỚI ĐẠO
Trăm hoa đua nở nét trinh thuần
Muôn vạn lòng đua nở đoá xuân
Rực rỡ y vàng tươi đạo Pháp
Nhởn nhơ áo trắng đẹp tinh thần
Vui xuân ước được xuân trường cửu
Học Đạo cầu sao Đạo tối chân
Đơm cánh hoa xuân rồi kết quả
Quả xuân tròn chín Đạo tròn phần
*
TIẾNG GỌI THIÊNG LIÊNG
Nhớ buổi đầu tiên lập đạo tràng
Tinh thần dỏng mãnh mấy ai đang
Thầy trò tương ngộ trời trong sáng
Huynh đệ đồng song cảnh rộn ràng
Nhu cầu Phật sự kíp lên đường
Nhiệm vụ người người tự đảm đương
Nhẹ bước du phương trường học hỏi
Chở che Đạo Pháp hạnh hoằng dương
Khó nhọc gian lao nguyện gánh gồng
Y vàng phấp phới khắp miền Trung
Mở lòng trong sáng lời kinh Pháp
Khai đạo gần xa chí lực hùng
Nguyện độ nhân sanh hết khổ nàn
Mình vương ách khổ nạn miên man
Thương đời chia xẻ nhiều cay đắng
Dồn nghiệp cho mau đến Niết Bàn
Tiếng gọi thiêng liêng nhớ hạnh từ
Nỗi lòng Bồ Tát lắng ưu tư
Bụng không con khóc tình cơm cháo
Nắng lửa cây gào nghĩa móc mưa
*
ĐỨC THẦY LÂM NẠN
MINH tinh rạng chói cõi trần gian
ĐĂNG chiếu khắp nơi đạo rộng tràn
QUANG nhựt hành trình vương khổ ách
LÂM vào ngục thất chịu tai nàn
NẠN Thầy vô tội đành mang nghiệp
HỠI kẻ không thù nở kết oan
TRỜI động lòng thương mưa gió lạ
ÔI thôi đệ tử lệ sầu chan!
*
LÒNG NGƯỜI HIẾU TỬ
TÔN Sư vô tội thọ tai ương
HOẰNG nguyện cùng nhau đến ngục đường
LẬP hạnh trò hiền tròn chữ hiếu
NGUYÊN mong kẻ dữ động lòng thương
AN tâm ví được lần tương hội
THƯỜNG chấp dầu lâm cảnh đoạn trường
DUYÊN nghiệp ngờ đâu thêm rắc rối
GIỚI thâm u để lệ sầu vương.
*
GIỚI thâm u để lệ sầu vương
DUYÊN số thà chung cảnh đoạn trường
THƯỜNG nhớ Thầy lâm cơn bó gối
AN vui con há chẳng tìm phương
NGUYÊN do nào rõ phần đau hờn
LẬP thế mong sao gặp tận tường
HOẰNG thệ nạn Thầy con gánh chịu
TÔN Sư ắt rõ tấm tình thương!
*
ĐƯỜNG GIẢI THOÁT
Trống giục canh tàn
Ngày sang đêm mãn
Anh sáng tươi hồng
Vầng đông tỏ rạng
Cõi trần hoàn lố dạng huỳnh y
Đường giải thoát hồi quy bỉ ngạn
Cùng năm tháng, trải gót hoá duyên
Hằng bữa liên miên, trì bình khất phạn
Thân là tạm, cõi đời là tạm
Cánh bèo trôi bể thảm lênh đênh
Tâm hằng bền, lẽ đạo hằng bền
Gót trí dạo rừng thiền thanh thản
Lưới ái, dây tình vương vấn
Vực sâu biển thẳm
Cột người này nhủng nhẳng người kia
Trí minh gươm tuệ đoạn lìa
Bến giác bờ kia
Bỏ nẻo tối quy về nẻo sáng
Hiệp bạn đồng nguyền
Đóng thuyền vượt bể
Phát thệ hoằng sanh
Du hành độ thế
Lập nên hệ thống Tăng già
Giữ đúng quy điều Phật chế
Tứ y Pháp bốn chồi cội rễ
Đơm hoa đẹp đẽ
Ba ngàn, tám vạn đoá nghiêm trang
Thập giới điều mười nhánh bổn căn
Trổ trái sai oằn
Hai trăm năm mươi chùm diễm lệ
Diệt bản ngã, trăm thân hoà nhứt thể
Sống một đời vạn thế kỉnh khâm
Dứt cạnh tranh, dị khẩu hợp đồng âm
Nói một tiếng muôn lần ghi để
Ý thanh lịch cùng nhau vui vẻ
Sớt dắng cay san sẻ ngọt bùi
Giới trang nghiêm chung hiệp trau giồi
Điểm lành lặn vá bồi sức mẻ
Kiến thức cao sâu cùng chỉ vẽ
Người si nhờ người tuệ đỡ nâng
Lợi quyền đa thiểu trọn chia phân
Lòng đạo diệt lòng trần ô uế
Giăng tay dắt con thuyền hoằng thệ
Thả trên mặt bể
An trí kẻ trầm
Trải lòng đan chiếc áo từ tâm
Choàng khắp cõi trần
Am thân người thế.
Đuốc tuệ soi đàng
Anh vàng tỏ lối
Bóng tối lui dần
Đạo chân phát khởi
Trống pháp dậy âm rền
Chuông thiền ngân tiếng dội
Cờ bác ái tung bay phấp phới
Đèn quang minh chiếu rọi tưng bừng
Phan từ bi vờn lượn lưng chừng
Loa giác ngộ tuyên dương inh ỏi
Giấc hôn trầm tỉnh vội
Gươm trí tuệ tay trao
Đường giải thoát tiến mau
Nón tâm nguyền đầu đội
Nôn nao phấn khởi, bạn mới vầy đoàn
Rộn rã hân hoan, lòng vàng tương hội
Cõi tịnh lạc dẫu muôn trùng diệu vợi
Thầy trò theo lối lướt phăng
Bước xông pha tuy nhiều nỗi khó khăn
Bầu bạn bền tâm chống chỏi
Lửa lòng tắt nguội, kệ kinh nhuần gội chiều mơi
Hoa trí nở tươi, pháp lý vun bồi sớm tối
Thân, miệng, ý giới nghi ràng trói
Vào thiện duyên
Nói, tưởng, làm luật hạnh nhắc khuyên
Xa miền tội lỗi.
Trưa trưa, tối tối,
Nước định chân mát dạ đôi biều
Sáng sáng, chiều chiều
Cơm thiền duyệt no lòng hai buổi
Cành dương chi rưới gội
Rửa lòng sạch bụi,
Mặc áo nhu hoà
Xe thượng thặng xông pha
Rước khách không ta
Vào nhà từ ái
Không quyền, không lợi
Hoà hiệp muôn duyên
Chẳng bạc, chẳng tiền
Tịnh thanh một cõi
Nắm bát y nối dõi chơn truyền
Phăng Định, Tuệ hườn nguyên gốc cội.
*
GIẢI THOÁT ĐẠO
Đời mạt Pháp trên hai ngàn năm rưỡi,
Vắng bóng Tăng, tu tịnh hạnh thanh bần.
Nay bỗng đâu, Chánh giáo hiện trong trần,
Khêu đuốc tuệ, tỏ đường đi lối bước.
Đây những kẻ, băng mình kinh nghiệm trước,
Hạnh tu cao, như dốc núi trèo lên.
Định bao giờ đi đúng mức siêu nhiên,
Sẽ quay lại kêu gọi đoàn hậu tiến.
Nhưng thảm nỗi cõi đời đầy nguy biến,
Người khổ tâm mong tìm chỗ thoát thân.
Món nghiệp trần mang sức nặng ngàn cân,
Tháp tùng kẻ chơn không đang nhẹ gót.
Đường khấp khểnh ngàn trùng cao đảnh chót,
Bước cheo leo muôn trượng thẳm hang sâu.
Dắt làm sao, rồi đi đứng làm sao,
Dây thúc phược, nặng nề vương nghiệp lực.
Ôi khó nghĩ, cho tâm người rộng đức,
Bỏ không đành, mà độ cũng không kham.
Chốn Tây-phương, há đựng mãi tình phàm,
Hư không giới, nào dính đâu hạt cát.
Nguyện đắc quả, nguyện bao giờ thành đạt,
Đủ sức linh, dẫn độ khắp muôn loài.
Há phải đâu, riêng vị một hai người,
Để trở ngại cuộc hành trình diệu viễn.
Điều thiết yếu phải công phu tu luyện,
Kẻ chưa siêu, nào độ được ai siêu.
Người đang tu, là đang gắng tìm trèo,
Tự giải thoát, trên bước đường siêu vượt.
Rẽ lối hiểm, cất mình tinh tấn lướt,
Dứt dây oan, rảnh trí nhẹ nhàng bay.
Gót tiêu diêu, chẳng bợn chút trần ai,
Gió lộng thổi, mảnh y vàng phất phới.
Ao khất sĩ, bức hoạ đồ thế giới,
Vẽ muôn ngàn, đường lối bước vân du.
Vì chúng sanh, khai mở lắm công phu,
Nẻo giải thoát, trở về quê cảnh cũ.
Bát Khất sĩ, bầu càn khôn vũ trụ,
Chứa muôn loài, vạn vật một lòng thương.
Quyết tâm tu, chứng ngộ Đạo chơn thường,
Bình nước tịnh, nhúng cành dương ban rưới.