Tinh hoa bí yếu
Lời Nói Đầu
Tụng là đọc tụng, đọc kinh có cách điệu riêng của giáo pháp Khất Sĩ; Niệm là suy nghĩ, nhớ tưởng trong khi tụng kinh và hành đạo. Tụng niệmlà miệng đọc, tâm tưởng nhớ, suy nghĩ. Miệng và tâm đều phải tịnh thanh, chuyên chú, hòa hiệp trong câu Kệ, lời Kinh, tiếng Pháp.
Tụng niệm có nhiều ý nghĩa và có hiệu lực, thiết nghĩ, chúng ta cũng nên hiểu chân xác các ý nghĩa này, để việc tụng niệm của chúng ta được kết quả tốt.
1.Tụng niệm để giữ cho tâm mình được thuần tịnh, giao cảm được với các Đấng Tối Cao, các Bậc Thánh Hiền và Chư Phật.
2.Tụng niệm để ôn lại ngọc ngữ kim ngôn của Phật, y lời Phật dạy, làm phương châm trong cuộc sống hằng ngày, gieo giống Bồ-đề vào tâm thức.
3.Tụng niệm để Cầu An, ngăn lòng tội lỗi, ngừa ác pháp sanh, tránh phần tai họa, dứt nghiệp tiền khiên.
4.Tụng niệm để thúc liễm thân, khẩu, ý mình, không buông lung vọng niệm, vừa được thanh tịnh, trang nghiêm, xứng đáng là Phật tử gương mẫu thuần thành, vừa để khích lệ, nhắc nhở người tu học.
5.Tụng niệm để Cầu Siêu, chuyển tâm người quá vãng, khiến họ xa lìa nghiệp xấu, rời cảnh giới sa đọa tối tăm, được siêu sanh Cực Lạc.
6.Tụng niệm còn có diệu dụng làm cho pháp âm lưu chuyển trong nhân gian, cảm hóa mọi người qui chánh, cải tà, chuyển mê, giải nghiệp.
7.Tụng niệm để hướng từ tâm, trương bi nguyện đến tất cả chúng sanh, cầu cho vạn loài âm siêu dương thới.
8.Tụng niệm để sám hối tội mình và người trước ngôi Tam Bảo, nơi thuần tịnh, không cấu nhiễm.
9.Tụng niệm lại còn là dịp để mình nhiếp tâm, thấu suốt tận tường chơn thật nghĩa của Chư Phật. Có như vậy, mình mới thêm được cơ duyên làm lợi ích thiết thực cho chúng sanh.
Vì những ý nghĩa trên, chúng ta nên tụng niệm đúng cách: giữ thân, khẩu, ý trang nghiêm; nhiếp tâm lực mình trong lời Kinh, câu Kệ; tụng chậm rãi đều đều, tránh ồn ào phức tạp; lìa các duyên làm kích động tâm mình đắm lợi, mê danh, nhiễm trần, sanh ác pháp.
Chỉ tụng niệm trước ngôi Tam Bảo, trong Tịnh Xá, đạo tràng hoặc tại tư gia thanh tịnh, trang nghiêm, thích hợp. Không tụng niệm trước chỗ thờ cúng quỉ thần, cúng thức ăn mặn, đốt vàng mã theo tục lệ mê tín dị đoan, tà kiến, đã không thích hợp với Chánh Pháp của Đức Từ Tôn, lại còn mất công, vô bổ.
Tụng niệm hằng ngày thì cứ khởi ngay mỗi tựa kinh mà tụng. Khi tụng dứt đoạn, thấy chữ O, chúng ta đánh một tiếng chuông, lạy một lạy, niệm thầm: “Nam-mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!”.
Chú Đại Bi
Nam-mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ-tát (3 lần)O
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni.
Nam-mô hắt ra đát na đa ra dạ da.
Nam-mô a-rị-da, bà lô yết đế thước bát ra da, Bồ-đề-tát-đỏa bà da, ma-ha tát đỏa bà da, ma-ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.
Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a-rị-da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.
Nam-mô na ra cẩn trì, hê rị ma-ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án, a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma-ha bồ-đề-tát-đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma-ha phạt xà ra đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm, Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê lỵ, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ-đề dạ bồ-đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta-bà-ha. Tất đà dạ, ta-bà-ha. Ma-ha tất đà dạ, ta-bà-ha. Tất đà dủ nghệ, thất bàn ra dạ, ta-bà-ha. Na ra cẩn trì, ta-bà-ha. Ma ra na ra, ta-bà-ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta-bà-ha. Ta bà ma-ha a tất đà dạ, ta-bà-ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta-bà-ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta-bà-ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta-bà-ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta-bà-ha.
Nam-mô hắt ra đát na đa ra dạ da.
Nam-mô a-rị-da, bà lô kiết đế thước bàn ra dạ, ta-bà-ha.
Án, tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta-bà-ha. (3 lần) O
Lễ Phật
Con hết lòng thành kính,
Làm lễ Đức Thế Tôn,
Bậc Ứng Cúng cao thượng,
Bậc Chánh Giác hòan toàn. O (3 lần)
Tán Hương
Lư vàng vừa đốt hương thanh,
Khói xông pháp giới kết thành tường vân.
Chí tâm thỉnh nguyện ân cần,
Ngưỡng mong Chư Phật hiện thân chứng lòng. O
Nam-mô Hương Vân Cái Bồ-tát Ma-ha-tát. O (3 lần)
Khai Kinh
Huyền diệu trên đời Pháp rộng sâu,
Trăm ngàn muôn kiếp dễ chi cầu.
Nay con nghe thấy chuyên trì tụng,
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam-mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật O (3 lần)
Kinh Di Giáo
Tựa
Phật chuyển Pháp lần đầu,
Kiều Trần Như được độ.
Phật thuyết Pháp rốt sau,
Tu Bạt Đà được độ.
* * *
Rừng Sa La Song Thọ,
Phật sắp nhập Niết-bàn.
Đêm thanh vì đệ tử,
Pháp trọng yếu truyền ban.
TIẾT THỨ NHẤT
Giữ Giới
Này Tỳ khưu các bậc,
Khi ta nhập Niết-bàn,
Phải tôn trọng Kinh Luật,
Như đêm tối gặp đèn.
Như người nghèo được báu,
Phải biết Giới là Thầy,
Giá ta còn sống mãi,
Cũng chẳng khác chẳng sai.
Người giữ gìn Giới Luật,
Không bán buôn, đổi chác,
Không tạo ruộng, mua nhà,
Không mướn người, nuôi vật.
Không đào đất, đốn cây,
Không xem sao, coi tướng,
Không trị bịnh, coi ngày,
Không xem số, toán mạng.
Không tham dự thế sự,
Không thông tin, đi sứ,
Không chế luyện thuốc tiên,
Không gần người càn dở.
Không thân kẻ giàu sang,
Không kinh doanh trồng tỉa,
Xa của quí bạc vàng,
Như lánh xa hầm lửa.
Phải giữ thân tiết độ,
Tạo đời sống tịnh thanh,
Gắng gìn tâm trung chánh,
Cầu dứt khoát mê tình.
Chẳng được giấu lỗi mình,
Chẳng được bày sự lạ,
Mê hoặc lòng chúng sanh,
Lạc sai nền đạo cả.
Trong bốn món cúng dâng,
Liệu lường cho vừa đúng,
Thảng hoặc có dư phần,
Sớt chia đều đủ dụng.
Đây nói sơ Giới tướng,
Là cội gốc thoát trần,
Gọi “Giải thoát chi bổn”,
Lợi ích khắp xa gần.
Giới ấy sanh định tuệ,
Dứt sạch khổ đời này,
Các Tỳ khưu giữ kỹ,
Đừng để khuyết mảy may.
Người giữ Giới trong sạch,
Thành tựu công đức lành,
Không Giới không công đức,
Giới thiệt đệ nhất danh.
TIẾT THỨ HAI
Kiềm Chế Nội Tâm
Này các Thầy Tỳ khưu:
Đã thọ trì Giới Luật,
Phải kiềm chế ngũ căn,
Đừng để cho phóng dật,
Theo ngũ dục hồng trần.
Ví như kẻ mục đồng,
Chẳng để trâu buông lung,
Tay cầm roi chế ngự,
Khỏi phá lúa quanh vùng.
Nếu buông thả ngũ căn,
Chẳng những ngũ dục trần,
Còn vô số tai hại,
Không phương thế chống ngăn.
Cũng như con ngựa dữ,
Không hàm thiếc, dây cương,
Tất kéo lôi người chủ,
Xuống hầm hố thảm thương.
Bị giặc cướp nhiễu hại,
Khổ sở chỉ một đời,
Giặc ngũ căn nhiễu hại,
Khổ sở biết bao đời!
Ngũ căn hại đến mức,
Chẳng khá chẳng đề phòng,
Cho nên người trí thức,
Kiềm chế chẳng chiều lòng.
Giữ gìn như giữ giặc,
Chẳng để chúng buông lung,
Dẫu buông lung dục lạc,
Cũng chẳng được miên trường.
Tâm làm chủ ngũ căn,
Các ngươi phải kiềm tâm,
Như rắn, thú, giặc, lửa,
Tâm đáng sợ vô ngần.
Như người bưng bát mật,
Đôi chân vội vã đi,
Sợ đổ, cứ nhìn mật,
Chẳng thấy hố hiểm nguy.
Như voi dại không xiềng,
Như vượn thoát cành chuyền,
Khó lòng kiềm chế được,
Cột lại chớ trì diên.
Tâm vọng mất phước lành,
Chế tâm vạn sự thành,
Các Tỳ khưu tinh tấn,
Chiết phục lấy tâm mình.
TIẾT THỨ BA
Xứng Lượng Vừa Phải
Này các Thầy Tỳ khưu:
Thọ các thức ăn,
Xem như dùng thuốc,
Mặc dầu xấu tốt,
Chớ giảm chớ tăng.
Miễn đủ nuôi thân,
Qua cơn đói khát,
Như ong lấy mật,
Chẳng hại sắc hương.
Nhận của cúng dường,
Tỳ khưu cũng vậy,
Trừ phiền diệt quấy,
Chớ quá tham cầu.
Bằng quá ham cầu,
Mất lòng tín thí,
Ví như người trí,
Độ lượng sức bò,
Nhiều ít lần dò,
Không cho kiệt lực.
TIẾT THỨ TƯ
Hổ Thẹn
Này các Thầy Tỳ khưu:
Chớ để giờ qua luống,
Ngày ngày tu pháp lành,
Sơ canh thâm canh vậy,
Luôn đêm gắng tụng kinh.
Chớ để đời qua luống,
Chỉ vì giấc nghỉ an,
Kìa vô thoàng lửa dữ,
Đang thiêu đốt thế gian.
Chớ để đời qua luống,
Chỉ vì giấc ngủ ngon,
Kìa quân giặc phiền não,
Đang rình giết chúng con.
Phiền não như rắn độc,
Đang ngủ tại lòng ta,
Dùng Giới làm cây móc,
Móc rắn liệng ra xa.
Rắn đi mình an giấc,
Rắn ở dễ chi mà,
Rắn còn nhưng cứ ngủ,
Ngươi chẳng thẹn sao a?
Biết xét mình hổ thẹn,
Như ăn mặc trang nghiêm,
Tâm tàm như câu móc,
Đối người sái hay kiềm.
Vậy nên các Tỳ khưu,
Thoàng tự biết hổ thẹn,
Bằng lìa bỏ tâm tàm,
Công đức không tròn vẹn.
Người có biết hổ thẹn,
Pháp lành ắt đắc thâu,
Bằng không biết hổ thẹn,
Cầm thú có khác đâu.
TIẾT THỨ NĂM
Nhẫn Nhục
Này các Thầy Tỳ khưu:
Như có kẻ chẳng lành,
Phân thây mình từng đoạn,
Phải thu nhiếp tâm mình,
Đừng phát sanh giận oán.
Lại giữ gìn cửa miệng,
Chớ buông tiếng chẳng lành,
Giận oán hư hại đạo,
Uổng công đức tu hành.
Nhẫn nhục đức cao vọi,
Hơn tất cả công năng,
Dầu khổ hạnh trì Giới,
Cũng không thể sánh bằng.
Kẻ trau dồi đức nhẫn,
Năng chế ngự lòng sân,
Đáng được danh xưng tụng,
Trang hữu lực đại nhân.
Người chẳng hay nhẫn nhục,
Nếm khổ tợ cam lồ,
Không phải người trí tuệ,
Nhập đạo ngộ huyền cơ.
Tai hại của giận oán,
Phá tan các pháp lành,
Đời đời người khinh chán,
Tiêu tán cả lòng thành.
Lòng sân hơn lửa mạnh,
Phải biết được đề phòng,
Đừng để cho thâm nhập,
Cướp lẫn đức và công.
Người đời chưa biết đạo,
Còn tham muốn cạnh tranh,
Tuy sân, còn thứ được,
Tại dốt pháp tu hành.
Kẻ xuất gia hành đạo,
Dứt tham muốn cạnh tranh,
Còn sân, ôi trái lẽ,
Tựa sấm nổ trời thanh!
TIẾT THỨ SÁU
Diệt Kiêu Mạn
Này các Thầy Tỳ khưu:
Tự cạo tóc mình,
Bỏ đồ trang sức,
Mặc y hoại sắc,
Khất thực trì bình,
Sinh hoạt tịnh thanh,
Dứt trừ kiêu mạn,
Phải năng tưởng quán,
Kiêu mạn xấu xa,
Người thế kia là,
Còn không dung vị,
Huống mình Tu sĩ,
Học đạo thoát trần,
Đã hạ tấm thân,
Ra người khất thực.
TIẾT THỨ BẢY
Lòng Chân Thật
Này các Thầy Tỳ khưu:
Lòng tà mị dua nịnh,
Trái nghịch với đạo lành,
Vậy người theo pháp chánh,
Phải giữ tấc lòng thành.
Biết tà dua, dối mị,
Người đạo chẳng nên làm,
Chơn thật là căn bổn,
Các ngươi phải chánh tâm.
TIẾT THỨ TÁM
Thiểu Dục
Này các Thầy Tỳ khưu:
Người còn nhiều tham muốn,
Khổ não tự nhiên nhiều,
Người diệt trừ tham muốn,
Khổ não cũng diệt theo.
Thiểu dục còn lợi ích,
Huống tu tập thêm nhiều,
Thì các phần công đức,
Tăng trưởng biết bao nhiêu!
Người thiểu dục an bài,
Không dua nịnh cầu ai,
Sáu căn, sáu mũi giặc,
Không dẫn dắt lầm sai.
Người thiểu dục thản nhiên,
Không sợ hãi ưu phiền,
Gặp việc rộng xoay trở,
Thoàng đầy đủ phước duyên.
Người thiểu dục vui yên,
Niết-bàn chứng hiện tiền,
Niết-bàn tâm tịch diệt,
Thiểu dục danh thực truyền.
TIẾT THỨ CHÍN
Tri Túc
Này các Thầy Tỳ khưu:
Muốn thoát các não phiền,
Thoàng năng quán tri túc,
Biết tri túc Pháp môn,
Toàn vui an ổn nhứt.
Tri túc đất làm giường,
Lòng vẫn thoàng hoan hỷ,
Bất túc ở Thiên đường,
Cũng vẫn chưa vừa ý.
Người không biết tri túc,
Tuy giàu nhưng bần hàn,
Người có biết tri túc,
Tuy nghèo nhưng giàu sang.
Kẻ không biết tri túc,
Thoàng bị năm dục lôi,
Kẻ có biết tri túc,
Nhìn thấy bắt thương ôi !
TIẾT THỨ MƯỜI
Xa Lánh Tục Trần
Này các Thầy Tỳ khưu:
Muốn tìm nơi tịnh lặng,
Cầu an lạc vô vi,
Phải ở riêng cảnh vắng,
Xa hẳn thị cùng phi.
Người tâm hòa tịch tịnh,
Đế Thích, các Thiên Vương,
Đều hết lòng cung kính,
Rải hoa quí cúng dường.
Nên xả chúng của mình,
Cùng chúng của người khác,
Tìm nương chốn tịnh thanh,
Lo diệt gốc khổ ác.
Đồ chúng càng đông đảo,
Phiền não càng phát sanh,
Như cây nhiều chim đậu,
Ắt khô lá, gãy cành.
Thế gian trói buộc người,
Đắm chìm nơi biển khổ,
Như tượng già sa lầy,
Khó trông ra khỏi đó.
TIẾT THỨ MƯỜI MỘT
Tinh Tấn
Này các Thầy Tỳ khưu:
Nếu tinh tấn chuyên cần,
Không chi gọi khó khăn,
Nước nhỏ giọt xoi mãi,
Đá cứng phải mòn lần.
Hành đạo tâm biếng lười,
Không khác chi nhen lửa,
Lửa chưa bén ngưng rồi,
Mong lửa, lửa đâu có ?
TIẾT THỨ MƯỜI HAI
Không Quên Chánh Niệm
Này các Thầy Tỳ khưu:
Cầu bậc tri thức lành,
Cầu người hộ trợ giỏi,
Nhưng muốn đặng viên thành,
Chánh niệm cần theo dõi.
Nếu chánh niệm tinh tiến,
Giặc phiền não khó vào,
Tự tâm thoàng nhiếp niệm,
Công đức chẳng tiêu hao.
Nếu chánh niệm bền vững,
Thì năm dục vô can,
Ví như người lướt trận,
Lòng chẳng chút kinh hòang.
TIẾT THỨ MƯỜI BA
Thiền Định
Này các Thầy Tỳ khưu:
Nếu nhiếp tâm một chỗ,
Tâm liền được định an,
Pháp thế gian thấy rõ,
Sanh diệt tướng vô thoàng.
Phải tập định tinh cần,
Đắc định, chẳng loạn tâm,
Ví như người chứa nước,
Đắp đê khéo, nước cầm.
Người tu hành cũng thế,
Trau dồi pháp định thiền,
Muốn gìn nước trí tuệ,
Khéo đắp đê tâm điền.
TIẾT THỨ MƯỜI BỐN
Trí Tuệ
Này các Thầy Tỳ khưu:
Người có trí tuệ lành,
Không ham muốn cạnh tranh,
Chẳng để cho lầm lỗi,
Thoàng tự xét lấy mình.
Được vậy, được giải thoát,
Chẳng vậy, chẳng tu hành,
Cư sĩ cũng chẳng được,
Đời đạo thảy phi danh.
Trí tuệ như thuyền vững,
Biển tứ khổ độ qua,
Trí tuệ như đèn sáng,
Vùng hắc ám chói loà.
Trí tuệ như lương dược,
Chữa lành bịnh hiện tiền,
Trí tuệ như búa sắc,
Đốn bỏ cây não phiền.
Vậy phải dùng văn tuệ,
Tư tuệ và tu tuệ,
Tăng trưởng công đức lành,
Lợi ích không xiết kể.
Có tuệ soi thế gian,
Tuy còn hàng nhục nhãn,
Mà chính bậc cao nhân,
Việc việc đều thông sáng.
TIẾT THỨ MƯỜI LĂM
Chẳng Hý Luận
Này các Thầy Tỳ khưu:
Cả thảy chuyện thế gian,
Nếu luận bàn đắc thất,
Tâm loạn động khó an,
Tu hành không giải thoát.
Vậy nên các Tỳ khưu,
Mau xa lìa hý luận,
Hý luận khéo diệt trừ,
Mới được vui vắng lặng.
TIẾT THỨ MƯỜI SÁU
Bỏ Phóng Dật
Này các Thầy Tỳ khưu:
Muốn được phần công đức,
Thì phải chừa phóng dật,
Như xa lánh giặc thù,
Lợi ích khôn lường được.
Hoặc ở chốn núi non,
Hoặc ở nơi vắng lặng,
Hoặc tịnh thất cội cây,
Niệm pháp đừng xao lãng.
Tự mình nên cố gắng,
Tu hành thêm tinh tấn,
Đừng để kiếp chết suông,
Sau này bao hối hận.
Ta ví như y sĩ,
Biết bịnh, chỉ thuốc hay,
Như uống cùng không uống,
Lỗi chẳng tại nơi thầy,
Lại như kẻ chỉ đường,
Hướng dẫn con đường thẳng,
Đi theo hoặc chẳng đi,
Lỗi chẳng nơi người dẫn.
TIẾT THỨ MƯỜI BẢY
Quyết Nghi
Này các Thầy Tỳ khưu:
Nếu trong pháp Tứ đế,
Còn có chỗ hòai nghi,
Đừng đem lòng ái ngại,
Mà nên hỏi mau đi.
Phật nói thế ba lần,
Đại chúng đều lẳng lặng,
Ấy bởi duyên cớ nào,
Bởi không còn nghi vấn.
Ngài A Nậu Lâu Đà,
Xem xét đại chúng khắp,
Cung kính bạch trình qua:
Con kính bạch Đức Phật.
Mặt trăng có thể nhiệt,
Mặt trời có thể hàn,
Nhưng Tứ đế Phật thuyết,
Không sai khác, hòan toàn.
Phật nói pháp Khổ đế,
Thiệt khổ, chẳng hề vui,
Phật nói pháp Tập đế,
Thiệt nhơn, chẳng đổi dời.
Khổ diệt tức nhơn diệt,
Nhơn diệt tức quả diệt,
Đạo diệt khổ, đạo chơn,
Không đạo nào sánh kịp.
Con kính bạch Đức Phật,
Các thầy Tỳ khưu này,
Đối với pháp Tứ đế,
Quyết định chẳng hồ nghi.
Có người chưa chứng quả,
Ở trong đại chúng này,
Nghe thấy Phật diệt độ,
Tức sanh lòng ai bi.
Có người mới nhập pháp,
Nghe Phật giảng, ngộ liền,
Như đêm nhờ điện sáng,
Soi lối bước hiện tiền.
Có người được chứng quả,
Biển khổ vượt qua rồi,
Chỉ có một ý niệm,
“Phật diệt độ gấp thôi !”
Ngài A Nậu Lầu Đà,
Mặc dầu nói như thế,
Nhưng trong đại chúng này,
Đều hiểu thấu Tứ đế.
Bấy giờ Đức Thế Tôn,
Muốn cho hàng đại chúng,
Bền vững trong Pháp môn,
Mở lòng từ giảng rộng.
TIẾT THỨ MƯỜI TÁM
Nói Rõ Nhân Duyên
Này các Thầy Tỳ khưu:
Ta trọn đời một kiếp,
Có hiệp tất có ly,
Lại hễ ly rồi hiệp,
Đừng thương nhớ ai bi.
Ta dạy đã tròn đầy,
Pháp lợi mình lợi chúng,
Dầu lưu mãi cõi này,
Cũng không còn ích dụng.
Khắp cõi dưới cõi trên,
Kẻ đáng độ, đã độ,
Kẻ chưa đáng, tạo duyên,
Để sau này được độ.
Từ đây trở về sau,
Tiếp tay đừng để tuyệt,
Tức pháp thân Như Lai,
Thoàng tại mà không diệt.
Vậy các ngươi phải biết,
Cảnh thế gian vô thoàng,
Có hiệp có ly biệt,
Chớ phiền não nhớ thương.
Tướng thế gian mơ hồ,
Tiến tu, cầu giải thoát,
Dùng tuệ phá mê mờ,
Đời mỏng manh không chắc.
Hôm nay ta đắc diệt,
Như trừ được bịnh dữ,
Thân tội ác bỏ đi,
Đem chôn biển tứ nghiệt.
Bậc người đắc trí tuệ,
Diệt trừ được huyễn thân,
Như diệt trừ nghịch tặc,
Lẽ nào chẳng vui mừng.
TIẾT THỨ MƯỜI CHÍN
Nhất Tâm
Này các Thầy Tỳ khưu:
Phải nhất tâm tu học,
Cầu giải thoát thế gian,
Pháp động cùng bất động,
Đều bại hoại chẳng an.
Tổng Kết
Các ngươi đừng nói nữa,
Giờ nhập diệt đến rồi.
Đây lời ta di chúc,
Lời cuối cùng trong đời.
HẾT
(Phần Bát Nhã Tâm Kinh, Hồi Hướng trang 284)
Kinh Từ Tâm (Kinh Từ Bi)
Thi hóa: Cố Ni Trưởng Huỳnh Liên
Người khôn có đủ đức tài,
Hằng tìm lợi ích tương lai cho mình.
Dọn lòng an tịnh thanh bình,
Tiến vào Cực Lạc Vô sanh Niết-bàn.
Giữ lòng chánh trực đoan trang,
Nhu hòa lương thiện chẳng màng phô trương.
Thanh bần an phận thủ thoàng,
Không cam thế sự vấn vương cõi lòng.
Lục căn chế ngự nghiêm phòng,
Không cho liều lĩnh luyến mong dục trần.
Không làm nhơ bẩn tinh thần,
Tránh lời chê trách Thánh nhân phê bình.
Mong cầu tất cả chúng sanh,
Dồi dào hạnh phúc hòa bình sanh nhai.
Cầu cho ba giới, bốn loài,
Chúng sanh yếu mạnh, vắn dài, bình trung.
Béo, gầy, nhỏ, lớn, khôn, cùng,
Hữu hình, vô tướng muôn trùng gần xa.
Chưa sanh hoặc đã sanh ra,
Thảy đều thọ hưởng hà sa phước lành.
Nguyện không lừa gạt dối manh,
Khinh người miệt chúng hư danh trang hiền.
Dầu cho thân thuộc xóm giềng,
Người dưng kẻ lạ các miền xa xăm.
Trong cơn phẫn nộ giận thầm,
Cũng không lo nghĩ mưu thâm hại người.
Như lòng từ mẫu thanh tươi,
Trăm cay ngàn đắng vui cười vì con.
Dầu cho một mất một còn,
Bảo tồn con trẻ vuông tròn ăn chơi.
Tình thương ghi tạc đời đời,
Từ bi rộng lớn bầu trời thênh thang.
Học đòi từ mẫu gương vàng,
Mở lòng thương xót bủa tràn gần xa.
Chúng sanh trong cõi Ta Bà,
Thoát vòng khổ não vượt qua luân hồi.
Hằng ngày rải khắp nơi nơi,
Bốn phương tám hướng gầm trời bao la
Tấm lòng bác ái vị tha,
Gội nhuần tư tưởng đậm đà tình thương.
Lòng từ trong sạch như gương,
Không pha ác cảm không vương tư thù.
Chí tâm trì niệm công phu,
Khi đi, khi đứng chuyên tu tham thiền.
Nằm ngồi mặc niệm thoàng xuyên,
Sưu tầm đạo quả gieo duyên Niết-bàn.
Đó là phương pháp thế gian,
Đó là hạnh kiểm đưa đàng Vô sanh.
Thánh nhân ca tụng tán thành,
Xuôi dòng Thánh vức lữ hành nhập lưu.
Vượt lên đến mức thắng ưu,
Khai thông tuệ nhãn tầm sưu đỉnh đầu.
A Hàm đao tuệ gươm mầu,
Tuyệt đường tà kiến, xả câu dục tình.
Bất Lai cảnh giới hữu hình,
Phạm Thiên tạm ngự nghiêm minh Niết-bàn.
Kinh Vô Ngã Tướng
Thi hóa: Ni Trưởng Huỳnh Liên
(Lúc Đức Thế Tôn mới thành đạo, Ngài đến vườn Lộc Uyển, xứ Ba La Nại thuyết pháp cho năm vị Tỳ khưu nhóm Kiều Trần Như nghe, bài thứ nhất là kinh Chuyển Pháp Luân và bài thứ nhì là kinh Vô Ngã Tướng.)
Thuở Phật ở rừng Hươu,
Dạy năm vị Tỳ khưu.
Rằng sắc thân vô ngã,
Chẳng phải của ta đâu.
Nếu sắc thân hữu ngã,
Không phải chịu khổ đau.
Vì sắc thân vô ngã,
Nên thường chịu khổ đau.
Vì sắc thân vô ngã,
Cho nên không thể có,
Xin thân được thế này,
Xin thân đừng thế nọ.
Sắc, thọ, tưởng, hành, thức,
Thảy đều y như nhau,
Thảy đều là vô ngã,
Thảy đều chịu khổ đau.
Này Tỳ khưu các bậc,
Thân thường hay vô thường?
Thân vô thường, bạch Phật.
Vật vô thường khổ vui?
Bạch Phật, vật ấy khổ.
Vật vô thường đã khổ,
Có nên rằng của ta?
Bạch Phật, chẳng nên đó!
Này Tỳ khưu các bậc,
Thọ thường hay vô thường?
Thọ vô thường, bạch Phật.
Vật vô thường khổ vui?
Bạch Phật, vật ấy khổ.
Vật vô thoàng đã khổ,
Có nên rằng của ta ?
Bạch Phật, chẳng nên đó !
Này Tỳ khưu các bậc,
Tưởng thường hay vô thường ?
Tưởng vô thường, bạch Phật.
Vật vô thường khổ vui ?
Bạch Phật, vật ấy khổ.
Vật vô thường đã khổ,
Có nên rằng của ta ?
Bạch Phật, chẳng nên đó !
Này Tỳ khưu các bậc,
Hành thường hay vô thường ?
Hành vô thường, bạch Phật.
Vật vô thường khổ vui ?
Bạch Phật, vật ấy khổ.
Vật vô thoàng đã khổ,
Có nên rằng của ta ?
Bạch Phật, chẳng nên đó !
Này Tỳ khưu các bậc,
Thức thường hay vô thường ?
Thức vô thường, bạch Phật.
Vật vô thường khổ vui ?
Bạch Phật, vật ấy khổ.
Vật vô thường đã khổ,
Có nên rằng của ta ?
Bạch Phật, chẳng nên đó !
Sắc thô, tế, quí, tiện,
Sắc bên trong, bên ngoài,
Sắc tam thế cận viễn,
Cũng chỉ là sắc thôi.
Các thầy dùng tuệ trí,
Xem sắc theo chân lý,
Đó chẳng phải là ta,
Của ta, thân ta vậy !
Thọ thô, tế, quí, tiện,
Thọ bên trong, bên ngoài,
Thọ tam thế cận viễn,
Cũng chỉ là thọ thôi.
Các thầy dùng tuệ trí,
Xem thọ theo chân lý,
Đó chẳng phải là ta,
Của ta, thân ta vậy !
Tưởng thô, tế, quí, tiện,
Tưởng bên trong, bên ngoài,
Tưởng tam thế cận viễn,
Cũng chỉ là tưởng thôi.
Các thầy dùng tuệ trí,
Xem tưởng theo chân lý,
Đó chẳng phải là ta,
Của ta, thân ta vậy !
Hành thô, tế, quí, tiện,
Hành bên trong, bên ngoài,
Hành tam thế cận viễn,
Cũng chỉ là hành thôi.
Các thầy dùng tuệ trí,
Xem hành theo chân lý,
Đó chẳng phải là ta,
Của ta, thân ta vậy !
Thức thô, tế, quí, tiện,
Thức bên trong, bên ngoài,
Thức tam thế cận viễn,
Cũng chỉ là thức thôi.
Các thầy dùng tuệ trí,
Xem thức theo chân lý,
Đó chẳng phải là ta,
Của ta, thân ta vậy !
Này các thầy Tỳ khưu,
Thanh văn nghe thấy rõ,
Chán nản thân sắc, hành,
Chán nản thức, tưởng, thọ.
Khi chán nản như thế,
Được xa lánh dục tình,
Được phát sanh trí tuệ,
Nẻo giải thoát đành rành.
Bậc ấy đã hiểu rành,
Đạo cao mình chứng đắc,
Phận việc đã thi hành,
Kiếp sanh rày chấm dứt.
Phật giảng kinh vừa dứt,
Năm Tỳ khưu hỷ hoan,
Bản ngã không còn chấp,
Lậu hoặc thảy tiêu tan.
Kinh Pháp Cú
Chúng tôi chọn lọc một số câu tuyệt diệu trong kinh Pháp Cú diễn ra văn vần, mục đích giúp trí nhớ cho những người mộ pháp ngâm đọc hằng ngày như ca dao. Nếu có điểm nào sai lạc, thành kính nhờ quý thức giả ra ơn chỉ giáo, giúp chúng tôi sửa chữa cho hòan bị hơn.
Đa tạ
I. Phẩm Song Yếu
1. Trong các Pháp do tâm làm chủ,
Tâm dẫn đầu tạo đủ các duyên.
Tâm nhơ tạo nghiệp chẳng hiền,
Như xe lăn bánh, khổ liền theo sau.
2. Trong các Pháp do tâm làm chủ,
Tâm dẫn đầu tạo đủ các duyên.
Tâm thanh tạo nghiệp tốt hiền,
Như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
3. “Người kia làm khổ tôi đây”,
Ai còn nghĩ vậy, oán này không tan.
4. “Người kia làm khổ tôi đây”,
Ai đừng nghĩ vậy, oán này tiêu tan.
5. Lấy ân trừ oán, oán tiêu,
Lấy oán báo oán, càng nhiều oan gia.
6. Vì không hiểu mình gần hủy diệt,
Nên chúng sanh mải miết cạnh tranh.
Nếu hay hủy diệt gần mình,
Chúng sanh phí sức cạnh tranh làm gì ?
7. Ham thích sống trong vòng khoái lạc,
Tâm buông lung biếng nhác đọa đày,
Ma kia dễ bắt người này,
Như cành mềm trước gió lay kinh cuồng.
8. Không thích sống trong vòng khoái lạc
Tâm vững vàng buộc chặt Giới nghi.
Ma kia khó thắng người này,
Như gió thổi, núi chẳng lay chẳng dời.
9. Tâm nhơ mang áo cà sa,
Giới nghi bừa bãi, chẳng thà không mang.
10. Tâm thanh mang tấm y vàng,
Giới nghi nghiêm khắc, đáng hàng Sa môn.
11. Phi chơn cứ tưởng thực chơn.
Thực chơn lại thấy phi chơn đó là.
Tư duy một cách vạy tà,
Người như thế ấy khó mà đạt chơn.
12. Thực chơn nghĩ đó thực chơn,
Phi chơn biết đó phi chơn mới là.
Tư duy chẳng chút vạy tà,
Người như thế ấy mới là đạt chơn.
13. Nhà lợp không kín, mưa chan,
Tâm không tu bị dục tham lọt vào.
14. Nhà lợp kín, mưa không chan,
Tâm tu không bị dục tham nhiễm vào.
15. Hối chỗ này, ăn năn chỗ khác,
Kẻ bạo tàn làm ác nhiều nơi,
Nơi nào cũng chẳng an vui,
Mắt nhìn ác nghiệp, bùi ngùi khổ đau.
16. Vui chỗ này, vui lây chỗ khác,
Kẻ hiền lành rải phước nhiều nơi,
Nơi nào cũng được an vui,
Mắt nhìn thiện nghiệp, thảnh thơi nhẹ nhàng.
17. Kẻ tội lỗi từng làm việc ác,
Chỗ này buồn, chỗ khác than buồn,
Than buồn tiếp diễn luôn luôn,
Nhớ mình “tạo ác” than buồn, khổ tâm.
18. Kẻ trong sạch từng làm việc phước,
Chỗ này vui, chỗ khác an vui.
An vui rải rác nơi nơi
Nhớ mình “tạo phước” mừng vui, tịnh lòng.
19. Tụng nhiều, hành chẳng theo kinh,
Thì phần lợi ích dễ thành tựu cho,
Khác nào những kẻ chăn bò,
Đếm bò cho chủ sữa bơ không dùng.
20. Tụng ít, hành đúng theo kinh,
Thì phần lợi ích được thành tựu cho,
Dứt phiền não, dứt âu lo,
Tịnh thanh giải thoát, cơ đồ Sa môn.
II. PHẨM KHÔNG BUÔNG LUNG
21. Buông lung, vào nẻo luân hồi,
Không buông lung, được dứt rồi tử sanh.
Buông lung, sống thể thây sình,
Không buông lung, được thoát vành chuyển luân.
25. Cần lo khắc chế,
Chẳng để buông lung,
Tạo nên hòn đảo lực hùng,
Thủy triều tham dục khó mong nhận chìm.
26. Gìn tâm, bậc trí chăm lo,
Như ông phú hộ bo bo giữ tiền.
28. Ngày nào dứt tuyệt buông lung,
Là ngày ấy dứt hãi hùng lo âu.
Bước lên trí tuệ lầu cao,
Nhìn người ngu xuẩn ôm nhiều sợ lo.
Khác nào lên chót núi to,
Cúi nhìn muôn vật bày phô rõ ràng.
29. Tỉnh tuồng giữa đám hôn mê,
Tinh cần giữa đám ê chề buông lung.
Như con tuấn mã oai hùng,
Vượt qua con ngựa ốm tong yếu hèn.
III. PhẨm Tâm
34. Cá lên trên đất hãi hùng,
Nhảy tung lăn lộn vẫy vùng thế nao ?
Tỳ kheo giữa cõi trần lao,
Sợ lo, phấn đấu, được mau thoát trần.
41. Thân này ngắn ngủi biết bao,
Sẽ vùi ba thước đất sâu lạnh lùng.
Ngàn thu ngủ một giấc nồng,
Như cây củi mục ai dùng nữa chi ?
IV. PhẨm Hoa
49. Sa-môn khất thực hóa duyên,
Chẳng làm tổn hại lụy phiền chúng sanh,
Như ong lấy mật hoa thanh,
Chẳng làm tổn hại sắc xinh hương nồng.
50. Lỗi người, mình phải bỏ qua,
Lỗi mình, mình phải xét tra kỹ càng.
Việc chi mình hãy chưa làm ?
Việc chi mình đã lo kham được rồi ?
51. Như hoa có sắc không hương,
Nói lành mà chẳng đảm đương làm lành.
52. Như hoa có sắc thêm hương,
Nói lành rồi lại đảm đương làm lành.
54. Mùi hương hoa quí tiết ra,
Khó bề ngược gió bay xa khắp cùng.
Mùi hương đức hạnh ngát lừng,
Mặc dầu ngược gió bay cùng bốn phương.
56. Mùi hương các thứ danh hoa,
Tuyệt thơm nhưng khó sánh qua hương người.
Hương người đức hạnh thanh tươi,
Xông lên bát ngát khắp vời Thiên cung.
58-59. Hoa sen thanh khiết thơm tho,
Mọc lên giữa chốn bùn nhơ ao tù.
Con người trí, dũng, bi, từ,
Hiện ra giữa chốn phàm phu tục trần.
V. PHẨM NGU
61. Kết bạn với kẻ hơn mình,
Hay là với kẻ ngang mình kết đôi.
Bằng không thà sống lẻ loi,
Còn hơn kết bạn với người ngu si.
63. Ngu mà tự biết mình ngu,
Ngu vầy là trí phải ngu đâu mà ?
Ngu mà chẳng biết mình ngu,
Tưởng rằng mình trí mới ngu thật là.
64. Ví như cái vá múc canh,
Bao giờ biết được vị lành ngọt ngon.
Gần hiền chẳng biết học khôn,
Bao giờ nếm được mùi hương đạo lành.
65. Ví như cái lưỡi nếm canh,
Tức thì đã biết vị lành ngọt ngon.
Gần hiền chăm chú học khôn,
Tức thì thấu nhập Pháp môn dễ dàng.
66. Lỡ cùng cừu địch chung đường,
Phải vì cừu địch tai ương giữa vời.
Lỡ vì ác nghiệp tạo rồi,
Phải cùng ác nghiệp tới nơi khổ sầu.
75. Một đàng đưa đến Niết-bàn,
Một đàng đưa đến thế gian tội tình.
Các hàng Phật tử biết rành,
Lợi danh chớ đắm, tu hành phải chuyên.
76. Gặp người trí thật tình chỉ lỗi,
Nên kết thân, học hỏi trau dồi,
Xem như kho báu trên đời,
Gần người trí thức, lành vời, dữ xa.
77. Ai hay chỉ lỗi răn khuyên,
Kẻ ác ghét bỏ, người hiền kính yêu.
VI. PHẨM TRÍ GIẢ
80. Người tưới nước lo phần dẫn nước,
Thợ cung tên lo chuốt cung tên,
Thợ hồ tô vách xây nền,
Cũng như người trí ngày đêm luyện lòng.
81. Vững vàng thay, ngọn đại sơn,
Bão to, gió lớn, chẳng sờn, chẳng lay.
Người đại trí, vững vàng thay,
Lời khen, tiếng báng, chẳng lay chẳng sờn.
82. Như hồ sóng lặng nước xanh,
Người lành ngộ pháp, tịnh thanh tấm lòng.
85. Bến bờ sanh tử đông vầy,
Bến bờ giải thoát một vài người qua.
87. Trí lành, ác pháp lìa xa,
Chuyên tu thiện pháp vượt qua biển trần.
88. Lìa vui ngũ dục trần hòan,
Tìm vui Chánh Pháp Niết-bàn thanh cao.
VII. PHẨM A-LA-HÁN
90. Người mà giải thoát hòan toàn,
Người mà dứt các buộc ràng thân tâm.
Là người đạt chỗ cao thâm,
Chẳng lo, chẳng sợ, vẹn phần an vui.
91. Kẻ dũng mãnh không ưa ràng buộc,
Như ngỗng kia khi vượt ao hồ,
Chẳng còn luyến tiếc chút mô.
VIII. PHẨM NGÀN
100. Lời vô ích ngàn câu vô bổ,
Hữu ích, dầu nhất cú hữu duyên.
Vừa nghe, tâm tịnh thanh liền,
Khổ sầu tiêu tán, não phiền sạch không.
103. Thắng người đâu sánh thắng mình,
Chiến công tự thắng liệt oanh trên đời.
104. Thắng người đâu sánh thắng mình,
Thắng mình chế ngự dục tình cao siêu.
109. Thoàng hoan hỷ tôn thờ Tam Bảo,
Nhất là tôn Trưởng lão, Cao Tăng.
Được điều tăng trưởng phước phần,
Sống lâu, vui vẻ, an bằng, đẹp xinh.
110. Sống trăm tuổi buông lung, phạm luật,
Thua một ngày thu thúc tham thiền.
112. Trăm năm giải đãi tu hiền,
Chẳng bằng một bữa lòng siêng trau dồi.
113. Nếu người sống trăm năm,
Không biết pháp sanh diệt.
Chẳng bằng sống một ngày,
Mà được rõ được biết.
114. Nếu người sống trăm năm,
Mà không thông Phật Pháp.
Chẳng bằng sống một ngày,
Mà được rõ biết chắc.
IX. PHẨM ÁC
116. Việc lành làm gấp rút,
Tâm ác đón ngăn nhanh.
Phút nào biếng nhác việc lành,
Tức thì tâm ác phát sanh ra liền.
117. Lỡ làm ác, bỏ mau mau,
Chứa ác, nhất định khổ sầu luôn luôn.
118. Đã làm thiện, phải hăng say,
Chứa lành, nhất định vui vầy luôn luôn.
119. Nghiệp ác chưa thành thục,
Người ác thấy vui vầy,
Đến khi thành thục mới hay,
Nghiệp hung, quả xấu, ác vay, khổ đền.
120. Nghiệp thiện chưa thành thục,
Người thiện thấy đắng cay.
Đến khi thành thục mới hay,
Nghiệp lành, quả tốt, thiện vay, vui đền.
121. Điều ác nhỏ, chớ khinh,
Tưởng quả chẳng đến mình.
Kẻ ngu, ác dồn chứa,
Như nước nhỏ đầy bình.
122. Điều thiện nhỏ, chớ khinh,
Tưởng quả chẳng đến mình.
Bậc trí, thiện dồn chứa,
Như nước nhỏ đầy bình.
125. Ngược gió ném bụi nhơ,
Bụi huờn về người tạt.
Kẻ ác hại người lành,
Hại hòan về kẻ ác.
127. Chẳng phải lặn biển thẳm,
Chẳng phải ẩn không gian,
Chui hang sâu núi vắng,
Mà thoát nghiệp dễ dàng.
128. Chẳng phải lặn biển thẳm,
Chẳng phải ẩn không gian,
Chui hang sâu núi vắng,
Mà trốn khỏi tử thần.
X. PHẨM ĐAO TRƯỢNG
129. Ai cũng sợ gươm đao,
Ai cũng sợ sự chết,
Suy ta ra lòng người,
Chớ giết, chớ bảo giết.
131-132. Ta cầu phước, hại người mất phước,
Hạnh phước ta khó được viên thành.
Đừng làm hại kẻ chung quanh,
Sở cầu hạnh phước viên thành tự nhiên.
133. Dùng lời thô ác cùng người,
Cùng ta, người cũng dùng lời ác thô.
Những lời nóng giận hồ đồ,
Khác nào gậy bổ, tựa hồ gươm đâm.
134. Lời sỉ vả mặc người khinh dể,
Ta lặng lờ như thể chuông câm.
Niết-bàn tự tại bước chân,
Người đâu tranh cãi chống ngăn được nào.
135. Mục đồng cầm cây gậy,
Xua trâu ra cánh đồng,
Già bịnh cũng như vậy,
Xua người đến tử vong.
XI. PHẨM LÃO
150. Gẫm cái thành, sánh cái thân,
Xây bằng máu thịt, dựng bằng gân xương.
Dối gian chất chứa chán choàng,
Nào già, nào chết, náu nương chốn này.
151. Xe dầu trang sức còn hư hoại,
Thân có trau tria, cũng yếu già.
Trừ pháp thanh cao, hàng Thánh chúng,
Không già, không hoại, độ Hằng sa.
152. Kém nghe, kém học, kém hành,
Thân phàm dẫu lớn, tuệ lành không tăng.
XIV. PHẨM PHẬT ĐÀ
183. Chớ làm các điều ác,
Gắng làm các việc lành,
Giữ tâm ý trong sạch,
Lời Chư Phật dạy rành.
186. Giả như mưa xuống ngọc vàng,
Cũng chưa thoả mãn lòng tham con người.
194. Hạnh phúc thay, Phật ra đời,
Hạnh phúc thay, Pháp diễn lời cao xa.
Hạnh phúc thay, Tăng hợp hòa,
Hạnh phúc thay, dõng tiến và đồng tu.
XV. PHẨM LẠC
197. Không thù oán cạnh người thù oán,
Sống như vầy sung sướng biết bao.
199. Giữa người tham dục xôn xao,
Sống không tham dục thanh cao ai bằng.
201. Thắng thì sanh oán, sanh thù,
Bại thì đau đớn lo rầu mãi thôi.
Sống đời hòa hiếu an vui,
Chẳng cầu thắng bại lôi thôi nhọc nhằn.
202. Ác nào bằng ác si sân ?
Lửa nào bằng lửa dục tham lan tràn ?
Khổ nào bằng khổ trần gian ?
Vui nào sánh kịp Niết-bàn thanh cao ?
203. Đói là chứng bịnh lớn,
Chết là nỗi khổ to.
Biết rồi như vậy hết lo,
Được phần an lạc, rõ cơ Niết-bàn.
204. Vô bịnh, rất lợi ích,
Biết đủ, rất sang giàu.
Thành tín, chí thân thiết,
Niết-bàn, vui thanh cao.
XVI. PHẨM HỶ ÁI
213. Vì lòng ái dục nên lo,
Vì lòng ái dục làm cho sợ buồn.
Dứt trừ ái dục luôn luôn,
Chẳng lo, chẳng sợ, thoàng thoàng an vui.
219-220. Khách ly hương trở về bổn xứ,
Được bà con mừng rỡ tiếp nghinh,
Như người vừa được vãng sinh,
Phước lành tạo sẵn tiếp nghinh chào mừng.
XVII. PHẨM PHẨN NỘ
221. Người nào dứt giận trừ kiêu,
Người nào giải thoát mọi điều nhục, vinh.
Người nào không dính sắc, danh,
Là không khổ não theo mình vấn vương.
222. Người nào đang lúc giận lung,
Tức thì ngăn được như dừng trớn xe.
Là người chế ngự tài ghê,
Ngoài ra là kẻ thoàng lề cầm cương.
223. Lòng từ thắng được lòng sân,
Lòng ngay thắng được lòng gian, ý tà.
Thắng hung dữ, lấy hiền hòa,
Thắng lòng tham, lấy của ra cho người.
228. Toàn được khen, toàn bị chê,
Xưa, sau, hiện tại, chưa hề có ai.
229. Mỗi sáng dậy tự mình phản tỉnh,
Hành động không lơ đễnh sai lầm.
Trí thanh giới tịnh trong ngần,
Là người được Đấng Siêu Trần tán dương.
XVIII. PHẨM CẤU UẾ
237. Đời ngươi đã sắp lụn tàn,
Chân ngươi đã sắp bước gần Diêm Vương.
Lữ hành thiếu hẳn tư lương,
Không nơi ngơi nghỉ, giữa đường bơ vơ !
240. Sắt sinh sét, sét ăn lại sắt,
Người gieo nhơn, nhơn dắt lại người.
Đi vào cõi ác chơi vơi,
Quả hành, nghiệp trả, khổ đời, hại thân.
246-247. Ai hay giết hại, gian tham,
Ai hay nói dối, tà dâm, rượu trà.
Hành vi như thế tức là,
Thiện căn đào bỏ, lạc xa đạo lành.
251. Sông nào đắm bằng sông ái dục ?
Chấp nào bền bằng chấp giận sân?
Lửa nào nóng thể dục tham ?
Lưới nào trói thể tình phàm ngu si ?
253. Thấy lỗi người tâm sanh nóng giận,
Phiền não theo, sân hận gia tăng.
Lỗi người ta cứ bỏ phăng,
Diệt trừ sân hận, tiêu tan não phiền.
XIX. PHẨM PHÁP TRỤ
270. Nếu tên Thánh, không còn giết hại,
Giết hại còn, chẳng phải Thánh đâu !
Thánh là hiền đức thanh cao,
Chẳng còn giết hại đau sầu chúng sanh.
XX. PHẨM ĐẠO
276. Lưới ma vương tìm phương cởi mở.
Sức định thiền giác ngộ tháo ra.
Gươm thiền cắt đứt lưới ma,
Phật Ngài chỉ lối, tự ta tiến hành.
277. Vạn ban vô ngã, vô thoàng,
Thắp đèn trí tuệ soi tường thế gian.
Thấy thống khổ, sẽ chán nhàm,
Đó là đạo quả Niết-bàn tịnh thanh.
281. Thân nên tránh ác làm hiền,
Răn dè lời nói, chế kiềm ý căn.
Tịnh thanh ba nghiệp vẹn phần,
Được tròn chánh đạo, được phần Thánh nhơn.
282. Hành thiền, trí tuệ phát sanh,
Bỏ thiền, trí tuệ mong manh điêu tàn.
Biết rồi đắc, thất, nguy, an,
Tiến tu thiền định, gia tăng trí mầu.
284. Dục tình chưa dứt, Tâm thức còn mê,
Khác nào như thể con bê,
Sữa kia còn bú, vú kia dễ rời.
285. Dục tình đã dứt,
Tâm thức hết mê,
Ví như tay bẻ cành lìa,
Lòng này tịnh lặng, bờ kia Niết-bàn.
287. Thế gian mê đắm ngũ trần,
Dửng dưng dầu bị tử thần dắt tay.
Khác nào làng mạc ngủ say,
Bị cơn nước lũ cuốn lôi êm đềm.
288. Tử thần khi đã dắt tay,
Thân tình cho mấy, thế thay được nào ?
Dầu cho cốt nhục, tâm bào,
Làm sao cứu hộ, làm sao theo cùng ?
XXI. PHẨM TẠP
291. Việc làm gieo khổ cho người,
Mặc người cam khổ, cầu vui cho mình.
Bao giờ dứt được nghiệp hành,
Bao giờ thoát khỏi bất bình oán tăng.
292. Việc không đáng, cứ làm xằng,
Việc đáng, lại chẳng siêng năng thực hành.
Những người phóng túng mạn khinh,
Tâm càng buông mãi, nghiệp sanh thêm hòai.
304. Làm lành danh tỏ rạng,
Như lên đỉnh Tuyết Sơn,
Làm ác nghiệp đen thẫm,
Như bắn cung đêm hôm.
305. Rừng sâu ngồi, đứng một mình,
Mặc tình vui đạo, mặc tình luyện tâm.
XXII. PHẨM ĐỊA NGỤC
306. Vọng ngôn: chuyện có nói không,
Chết vào địa ngục, cùm gông mang đầy.
307. Phàm tâm chẳng sửa chút nào,
Dầu mang pháp phục, cũng vào ngục môn.
308. Tu hành phá giới phạm gian,
Nuốt hòan sắt nóng, còn hơn thọ tài.
309. Buông lung tà dục miệt mài,
Bị khinh, mất ngủ, tội đày ngục môn.
310. Buông lung tà hạnh dâm loàn,
Ít vui, nhiều khổ, nghiệp dồn bàng sanh.
314. Không làm nghiệp ác là hơn,
Nhơn ác, nhất định, thọ cơn khổ nàn.
Nên làm nghiệp thiện là hơn,
Nhơn lành, nhất định lãnh phần an vui.
315. Thành vua chúa canh phòng nghiêm mật,
Thân Tỳ khưu canh gác nghiêm minh.
Một giây sơ hở tan tành,
Một giây sơ hở ngục hình đọa sa.
316. Không đáng hổ làm tuồng thẹn hổ,
Đáng hổ ngươi lại bỏ như không,
Cứ ôm tà kiến vào lòng,
Ngục hình khó nỗi thoát vòng trói trăng.
317. Không đáng sợ làm tuồng e sợ
Đáng sợ e lại bỏ như không,
Cứ ôm tà kiến vào lòng,
Ngục hình khó nỗi thoát vòng trói trăng.
318. Không lầm lỗi mà rằng lầm lỗi,
Có lỗi lầm lại chối lỗi lầm.
Cứ ôm tà kiến vào tâm,
Ngục hình khó thoát giam cầm trói trăng.
319. Có lầm lỗi, thề rằng lầm lỗi,
Không lỗi lầm, chẳng gọi lỗi lầm.
Giữ gìn chánh kiến nơi tâm,
Đường lành thấy chẳng xa xăm đâu mà!
XXIII. PHẨM VOI
320. Voi xuất trận cung tên chịu đựng,
Người xuất gia chịu nhẫn thị phi,
Thế gian lắm kẻ ố tỳ,
Thương chi gieo khổ, ghét chi gieo sầu ?
321. Luyện voi để dự hội hàng,
Luyện voi dâng đến Thượng hòang ngự du.
Đâu bằng luyện tấm lòng tu,
Chê bai, ẩn nhẫn, nghịch thù mến yêu.
322. Nương xe chẳng đến Niết-bàn,
Luyện tâm mới được dự hàng Vô Sanh.
325. Con heo thích ngủ, tham ăn,
Muôn đời tiếp tục bán thân làm hàng.
Người ngu thích ngủ, tham ăn
Muôn đời tiếp tục trói trăng luân hồi.
327. Như voi gắng vượt bùn lầy,
Trau tâm gắng sức thoát nguy luân hồi.
XXIV. PHẨM ÁI DỤC
335. Thế gian ái dục buộc ràng,
Khổ sầu như cỏ mọc tràn gặp mưa.
336. Tu hành, ái dục chế ngăn,
Khổ sầu như nước đổ nhằm lá sen.
337. Hãy dồn sức nhổ phăng ái dục,
Cỏ Tỳ la tận gốc tiêu trừ,
Đừng cho ái dục nhiễm nhơ,
Cỏ lau gặp nước tràn bờ bường lên.
338. Đốn cây chưa đào gốc,
Tược nhánh nảy sanh hòai.
Ái dục chưa trừ dứt,
Khổ não vẫn đeo đai.
340. Sáu căn phát ái dục ra,
Cũng như giống cỏ Man la mọc tràn.
Hãy dùng tuệ kiếm đoạn phăng,
Dứt căn ái dục, dứt căn luân hồi.
341. Ai còn ái dục lục trần,
Tuy cầu an lạc, nhưng gần trầm luân.
344. Xuất gia rồi lại nhập gia,
Sợi dây mới được mở ra, cột vào.
345. Giam cầm, cùm sắt, gông cây,
Cũng chưa phải thật kiên trì trói trăng.
Tấm lòng luyến ái thế gian,
Mới là vĩnh viễn trói trăng giam cầm.
347. Những ai say đắm dục tình,
Như tằm kéo kén buộc mình trong tơ.
Những ai tỉnh giấc say sưa,
Xa lìa thống khổ, ngao du thanh nhàn.
349. Kẻ chứa tư tưởng ác,
Muốn ham nhiều dục lạc,
Dục lạc muốn ham nhiều,
Trói buộc càng vững chắc.
354. Thí nào sánh thanh cao Pháp thí,
Vị nào bằng Pháp vị tiêu dao.
Pháp hỷ hơn các vui nào,
Diệt trừ ái dục, khổ đau chẳng còn.
355. Người ngu vì của hại thân,
Cũng như vì của hại nhân khốn nàn,
Của tiền hại chúng mê man,
Của tiền đâu dễ cầu sang bến lành !
356. Cỏ làm thiệt hại ruộng vườn,
Lòng tham làm hại thế nhơn vô vàn.
Độ người dứt tuyệt tham lam,
Phước càng to rộng, đức càng thẳm sâu.
357. Cỏ làm thiệt hại ruộng vườn,
Lòng sân làm hại thế nhơn vô vàn.
Độ người dứt tuyệt giận sân,
Phước càng to rộng, đức càng thẳm sâu.
358. Cỏ làm thiệt hại ruộng vườn,
Lòng si làm hại thế nhơn vô vàn.
Độ người dứt tuyệt si lầm,
Phước càng to rộng, đức càng thẳm sâu.
359. Cỏ làm thiệt hại ruộng vườn,
Lòng dục làm hại thế nhơn vô vàn.
Độ người dứt tuyệt dục trần,
Phước càng to rộng, đức càng thẳm sâu.
XXV. PHẨM TỲ-KHEO
360- 361 Chế phục được nhãn căn,
Chế phục được nhĩ căn,
Chế phục được tỷ căn,
Chế phục được thiệt căn,
Chế phục được thân căn,
Chế phục được ý căn,
Lành thay chế phục lục căn,
Tức thì giải thoát các phần khổ đau.
365. Điều mình tu chứng, chớ chê,
Điều người tu chứng chớ mê tìm tòi.
Cứ tìm tu chứng của người,
Cuối cùng chánh định xa vời chứng đâu?
367. Không “ta” và chẳng “của ta”,
Không lo, chẳng sợ, gọi là Tỳ khưu.
368. Tỳ khưu pháp hỷ, tâm bi,
Hợp hòa tịch tịnh, đoạn ly vô thoàng.
369. Thân người khác thể con thuyền,
Nước vừa tát cạn, thuyền liền nhẹ vơi.
Tham, sân, si, dục dứt rồi,
Buồm căng tinh tấn, thuyền xuôi Niết-bàn.
371.Chớ nhiễm mê dục vọng,
Phải thiền định ân cần.
Đừng đợi nuốt sắt nóng,
Mới hoảng hốt ăn năn.
372. Không thiền định, không sanh trí tuệ,
Trí tuệ không, chẳng thể định thiền.
Người nào gồm đủ nhơn duyên,
Định thiền, trí tuệ, gần bên Niết-bàn.
373. Tỳ khưu ở chỗ tịnh yên,
Tâm thoàng vắng lặng, vui yên Niết-bàn.
374. Xét thoàng năm uẩn diệt sanh,
Biết mình hạnh phúc, biết mình siêu nhiên
377. Phù dung xầu úa thế nào,
Tham, sân phải khiến úa xàu như y.
382. Tỳ khưu thân khẩu tịnh thanh,
Lìa vui, tâm định, xứng danh tu trì.
Tỳ khưu nhỏ tuổi siêng tu,
Như trăng vượt khỏi mây mù chiếu soi.
XXVI. PHẨM BÀ-LA-MÔN
387. Mặt trời chiếu sáng ban ngày,
Mặt trăng chiếu sáng đêm dài âm u.
Định thiền chiếu sáng người tu,
Phật quang chiếu sáng thiên thu thế trần.
389. Chớ đánh đập tu sĩ,
Bị đánh chớ giận hờn,
Người đánh bị xấu hổ,
Người giận xấu hổ hơn.
QUY SƠN CẢNH SÁCH
Nhơn do kiếp trước,
Nghiệp buộc thân này.
Nương các duyên thành tựu,
Nhờ cha mẹ hình hài.
Tuy hoả phong địa thủy làm thân,
nhưng vẫn hằng trái lẽ;
Khiến lão bịnh vô thoàng hiện tướng,
chẳng kỳ hẹn cùng người.
Sớm còn tối mất,
Nháy mắt qua đời.
Như sương mùa xuân,
như móc ban mai, bỗng liền tan rã;
Như cây dựa bực,
như dây bên giếng, nào chắc lâu dài.
Chóng nhanh mỗi phút,
Nhấp nháy từng giây.
Biến hơi thở thoạt nhiên đổi kiếp,
Há an lòng thong thả qua ngày ?
Đối cha mẹ chẳng dâng ngon ngọt,
Cùng tôn thân phút đã xa rời.
Việc nước không tài công cán,
Nghiệp nhà dứt hạt giống nòi.
Xa làng biệt xóm,
Xuống tóc theo Thầy.
Tưởng niệm cần trau tâm nội,
Nhu hòa rộng mở đức ngoài.
Mong lìa kiếp tạm,
Quyết thoát cõi đời.
Lên Giới phẩm mới vừa cao bực,
Xưng Tỳ kheo sao chực loè người ?
Tiêu xài của đạo,
Hưởng thọ của đời.
Chẳng xét kỹ:
của thí từ đâu thành tựu đó;
Lại nói càn:
pháp tu âu phải cúng dâng đây.
Ăn rồi dụm miệng,
Nói chuyện ngoài đời.
Thật là một lúc đua vui,
chẳng biết suy tường phăng gốc khổ;
Hay đâu nhiều đời thọ khổ,
chưa từng xét lại tỉnh cơn vui.
Ngày giờ luống mất,
Năm tháng buông trôi.
Của lắm thọ nhiều, càng tập nhiễm,
Năm dồn, tháng dập, khó toan rời.
Chập chồng vật chất,
Gìn giữ huyễn hài.
Phật dạy Tỳ kheo:
Tấn đạo nghiêm thân,
tình trần phải bớt;
Thế mà nhiều kẻ:
Luyến phàm nhiễm tục,
tham dục chẳng thôi.
Én dệt xuân vừa xanh đó,
Thoi đưa đầu đã bạc rồi.
Phận hậu học mù mờ tôn chỉ,
Nương tiên sanh giáo lý trau dồi.
Chớ nói xuất gia, trông cầu ăn mặc,
Phải tường Giới luật, từ bực mở bày.
Phật chế ra:
Phép tắc oai nghi,
dựng nếp sạch dường như băng tuyết;
Ngăn dè gìn giữ,
buộc lòng phàm chẳng được dể duôi.
Qui điều nhiệm nhặt,
Ngăn dứt lầm sai.
Trường Giới luật chưa gần chưa ở,
Kinh Thượng thừa nào rõ nào hay.
Khá tiếc qua rồi hết kiếp,
Những thương hối chửa kịp ngày.
Giáo lý chưa từng để dạ,
Đạo huyền còn gác bên tai.
Rồi đến tác lớn tuổi cao,
bụng dạ nào hay trống vậy;
Chẳng nương người lành bạn tốt,
tánh tình chỉ biết ngạo thôi.
Kinh luật mù mờ,
thân tâm đã không tu tập;
Nói năng lớn lối,
thứ bực chẳng kính vị ngôi.
Chạm bát khua nổi tiếng,
Dậy trước lúc ăn rồi.
Lật đật tới lui,
không gìn giữ trang nghiêm Tăng thể;
Lăng xăng ngồi đứng,
chẳng e dè xao động tâm người.
Qui tắc oai nghi,
chẳng được mảy may tồn tại;
Hậu lai tân học,
lấy đâu gương mẫu theo đòi ?
Bằng có người khuyên,
hẳn liền miệng xưng ta thầy núi;
Chưa nghe Phật dạy,
cứ một bề giữ tấm lòng sai.
Tri kiến hẹp hòi,
bởi tâm tánh buổi đầu biếng nhác;
Lợi danh mê muội,
nên tháng ngày luống những thiệt thòi.
Chẳng nghĩ lóng cóng yếu già,
ngẩn ngơ khi gặp việc;
Hậu học tầm tòi thưa hỏi,
ú ớ lúc buông lời.
Bằng nói thì sai lý lạc đề,
lời ra lủng củng không nhằm sách;
Bị khinh lại trách trò vô lễ,
lòng dấy sân si cãi lướt người.
Một mai ngã bịnh nằm giường,
các khổ vấn vương bức bách;
Khi ấy sớm lo tối tính,
trong lòng lính quýnh bồi hồi.
Đường trước mờ mờ,
muôn lối về đâu chẳng biết;
Tội xưa hối tiếc,
đợi khát đào giếng sao rồi ?
Giận mình trước chẳng lo tu,
tuổi già nặng nề tội lỗi;
Ngán thay giờ đang sắp chết,
tâm mê sợ sệt bồi hồi.
Lưới phủng chim bay, thức thần
theo nghiệp.
Oan đền trái trả, sức mạnh cuốn lôi.
Vương vấn lòng phàm, nặng đâu sa đó,
Vô thoàng quỉ dữ, niệm niệm không thôi.
Mạng chẳng dễ chờ, thời không dễ đợi,
Trời không thể khác, người chẳng thể sai.
Như thế thọ thân, chẳng luận mấy kiếp,
Chạnh thương than thở, tha thiết ai hòai.
Đâu nỡ im lời, cùng nhau răn nhắc,
Hậu sanh tượng pháp, cách Phật xa vời.
Giáo lý lôi thôi, nhơn tâm giải đãi,
Lược bày gọn gẫy, thức tỉnh hậu lai.
Nếu không chừa bỏ,
Thật khó chuyển lay.
PHÀM KẺ XUẤT GIA:
Tinh thần vượt bực,
Hình tướng khác đời,
Phật dòng nối thạnh,
Ma chúng khiếp oai,
Trên đáp đền bốn đức,
Dưới cứu độ ba loài,
Bằng chẳng được giới nghi đúng mực,
Ắt xen hàng Tăng chúng báo đời.
Nết xấu lời xằng, của dưng luống uổng,
Chỗ đi năm trước, tấc bước chẳng dời.
Đành lơ lửng một đời, lấy chi nương cậy,
Huống rỡ ràng Tăng tướng, dung mạo
dễ coi.
Đều nhờ nhân tốt đã roi,
quả lành nay đặng;
Lại cứ tay khoanh ngồi sững,
tấc bóng chẳng hòai.
Hễ là công nghiệp không cần,
tức thì công quả chẳng tựu;
Chẳng phải đời này vô ích,
mà còn đời khác chưa rồi.
Từ tạ song thân,
áo pháp quyết lòng mang trọn vẹn;
Tu hành nhiều bực,
phẩm sen định ý vượt cao vời.
Lo xét ngày đêm,
chớ khá dần dà qua buổi;
Đỡ nâng Phật Pháp,
nêu lên mẫu mực để đời.
Ước mong thành tựu chí nguyền,
chưa được chút phần tương ứng;
Dẫn giải phải nhằm kinh luật,
đừng cho một nét lầm sai.
Dung nghi đĩnh đạc,
Ý chí thanh bai,
Đi xa cần họp bạn lành,
rộng thấy việc hay sáng mắt;
Ở lâu phải tìm bạn tốt,
nhiều nghe lời quí thông tai.
CHO NÊN CÓ CÂU:
Sanh ta ấy Cha Mẹ
Giúp ta thiệt Bạn Thầy.
Gần gũi người lành,
như đi trong sương móc.
thấy chẳng ướt áo quần,
nhưng lần lần thấm nhuận;
Lân la đứa dữ,
ắt nhiễm lấy hung hăng,
gây ra nhiều tội lỗi,
ấy quả báo nay mai.
CHẾT RỒI ĐỌA LẠC:
Một phen mất rồi thân mạng,
Muôn kiếp đâu được lốt người,
Thẳng tiếng trái tai,
chạm dạ ghi lòng nên vậy;
Mai danh ẩn tích,
để tâm nuôi đức tốt thay.
Tinh thần cho trong sạch,
Phiền não hết khuấy rầy.
Bằng muốn học tham thiền,
vượt qua cửa phương tiện;
Phải tận tường tinh yếu,
thấu rõ đạo tuyệt vời.
Quyết chọn lý thâm sâu,
được nguồn chơn tỏ ngộ;
Rộng hỏi bậc cao đức,
gần học bạn hiền tài.
Tông này khó được diệu huyền,
quyết phải dụng tâm chín chắn;
Nhơn kia mau tỏ chơn chánh,
tức là xuất thế lần hồi,
Được như thế phá tan ba cõi,
Cùng là dứt khỏi hăm lăm loài.
Các pháp trong ngoài không thiệt cả,
Từ lòng biến khởi ấy giả thôi.
Tâm chẳng đem dùng toan tính vật,
Vật đâu nương cậy cản ngăn người.
Mặc dầu pháp tánh châu lưu,
chấp có chấp không nào vướng nữa;
Tầm thoàng sắc thinh nghe thấy,
bên sự bên lý ứng dụng hòai.
Được vậy chẳng uổng mặc pháp y,
đền trả bốn ơn cứu ba loại;
Nguyện ấy cho bền nên Phật quả,
lại qua ba cõi độ muôn đời.
Một pháp học thật huyền thật diệu,
Tấc lòng chuyên không lạc không sai.
Như bậc trung lưu, đạo lý còn mờ ám;
Thì nơi giáo pháp, kinh luật hãy tìm tòi.
Tầm nghĩa lý kinh,
xướng truyền Chánh Pháp;
Đền ơn Đức Phật,
tiếp dẫn hậu lai.
Thì giờ chớ nên luống bỏ,
Công phu nhờ đó tô bồi.
Được bề ngoài đứng đi nghiêm chỉnh,
Thì tăng trung pháp khí trau dồi.
HÁ CHẲNG THẤY:
Sắn nương tòng ngàn tầm cao vượt,
Gá duyên lành lợi được rộng khơi.
Trì trai giữ giới chớ lơi,
Nhơn mầu quả tốt đời đời thanh bai.
Chớ hững hờ qua buổi,
Đừng lêu lổng qua ngày.
Khá tiếc quang âm bay thấm thoát,
Chẳng cầu thăng tấn những ai hòai.
Bốn đức công ơn đành phụ nghĩa,
Mười phương tín thí luống hao tài.
Chứa tội càng sâu, tâm trần dễ lấp,
Gặp việc ắt thất bị chúng chê bai.
LỜI XƯA NÓI:
Người trượng phu ta đây cũng thế,
Chớ tự khinh luống để sụt lùi.
Chẳng dường ấy lôi thôi cửa đạo,
Không ích chi lếu láo một đời.
TRÔNG MONG CÁC VỊ:
Mở chí cho khoát thông,
Phát lòng cho dõng mãnh,
Lập hạnh người thượng đức,
Chớ theo kẻ bất tài.
Hiện thời tự mình quyết đoán,
Chẳng khá nhờ ai liệu bày.
Dứt ý vong duyên,
đừng với ngũ trần làm bạn;
Lòng không cảnh vắng,
chỉ vì vọng niệm ngăn hòai.
Đọc kỹ tư văn chuyên cần nhắc nhở,
Cho ra chủ tể chớ nệ tình đời.
Nghiệp kéo quả lôi, khôn dời khó tránh,
Tiếng hòa vang thuận, hình thẳng
bóng ngay.
Há không lo sợ,
Nhơn quả hiện bày.
NÊN TRONG KINH RẰNG:
Dẫu cho trăm ngàn kiếp,
Nghiệp cũ khó tiêu tan.
Nhơn duyên khi hội ngộ,
Quả báo tự mình mang.
CHO HAY:
Ba cõi buộc ràng, giết người hình phạt,
Chuyên tu ráng sức, chớ luống qua ngày.
Chính biết tội dày, khuyên nhau tu tập,
Nguyện làm bạn pháp trăm kiếp ngàn đời.
BÀI MINH RẰNG
Thân huyễn nhà mơ,
Không trung vật sắc.
Đời trước không cùng,
Đời sau đâu ắt.
Lên xuống cực lòng,
Đây sanh kia mất.
Chẳng khỏi ba vòng,
Thuở nào thôi dứt.
Tham luyến cảnh đời,
Ấm duyên thành chất.
Từ nhỏ đến già,
Không điều sở đắc.
Cội gốc vô minh,
Nhơn đây bị hoặc.
Khá tiếc quang âm,
Không lường gang tấc.
Đời nay luống qua,
Đời sau ngăn lấp.
Từ mê đến mê,
Đều do sáu giặc.
Qua lại sáu đường,
Xuống lên ba nấc.
Sớm tầm minh sư,
Nương gần cao đức.
Chọn lựa thân tâm,
Bỏ điều gai gốc.
Giả mị cuộc đời,
Các duyên ép ngặt.
Pháp lý nghiệm cùng,
Lấy ngộ làm mực.
Nhớ tưởng thảy không,
Cảnh lòng đều dứt.
Sáu căn hòa vui,
Đứng đi tịch mặc.
Một lòng chẳng sanh,
Muôn pháp đều dứt.
============================
Kinh Khóa Hư
Tựa
(Dịch nghĩa bài Tựa dẫn vào sách Khóa Hư, tác phẩm của Nhà Vua Trần Thái Tông)
Ngày rằm mùa thu Canh Tý (1840), nhân nghỉ việc mới đi vãng cảnh Chùa Đại Giác ở núi Bồ (Bồ Sơn) thuộc Huyện Tiên Du, Tỉnh Bắc Ninh để xem lễ các nhà Sư hội họp cầu ích Bồ-tát. Bấy giờ Sư Cụ Thanh Hương ở Chùa Do Nha, Huyện Võ Giăng có đem một tập Khóa Hư Lục gồm ba quyển để xin tôi bài tựa. Tôi từ chối rằng hiểu biết thô thiển về Đạo giáo, chưa đạt được ý nghĩa đạo Phật, tựu trung đối với Kinh sách của Ba Thừa và luận thuyết của Năm Phái được xem sơ lược, hiểu biết nông cạn, đâu dám cầm bút viết bậy để mua cười của các bậc thiện trí thức hay sao ? Sư Cụ cố nài xin hai ba lần, tôi bất đắc dĩ không làm sao được mới cầm sách về mở ra xem kỹ mới hay sách Khóa Hư Lục này là chính Hòang đế Thái Tôn triều Trần sáng tác vậy.
Tác giả thực cho rằng người ta từ bao nhiêu kiếp đến nay đã quên mất bản tâm, chẳng biết chánh đạo, sa đọa vào ba đường đau khổ bởi vì sáu căn sai lầm. Nếu không sám hối lỗi kiếp trước thì khó mà trông mong vào quả kiếp sau. Đấy là lý do làm ra sách Khóa Hư Lục này vậy. Trước hết tác giả xếp đặt bốn ngọn núi ví như bốn giai đoạn của đời người, phối với bốn mùa của thời tiết một năm, cho sanh, già, bịnh, chết là thể tất nhiên cũng như lẽ sanh ra, lớn lên, thu về, tàng chứa thay đổi lẫn nhau không bao giờ hết.
Không cứ chi người cư sĩ tại gia ở thế gian, hay hạng đi tu ra khỏi thế gian đều nên lo tu sửa sám hối. Tâm ý thức nên hư không nhưng thời giờ không thể bỏ hư không được, mà công phu học tập lại không thể một phút bỏ hư không được vậy. Cho nên cứ nhất định đêm ngày sáu buổi, đầu tiên thì dâng hương, tâu bạch, thứ đến sám hối, khuyên mời, sau cùng thì hồi hướng phát nguyện. Từ tối đến sáng, từ ngày đến đêm, mỗi lần sáu niệm ân cần, kêu thương với Từ Tôn, khẩn cầu thương giúp, ví như tấm lòng tiếc từ tấc quang âm của Vua Vũ nhà Hạ bên Tàu xưa không khác chút gì.
Lời văn gọn gàng mà lý lẽ rõ rệt, việc làm giản dị mà công phu dễ tới, có thể nhân đấy mà ngăn tâm vượn, phòng ý mã, vượt qua bể khổ bến mê. Tuy rằng thấu suốt hòan toàn chưa hẳn đã so sánh bằng các sách của bậc hiền đức đời xưa đã trước tác, nhưng để bước lên bậc thang của mười cõi, ra khỏi đường tắt bốn núi thì không thể thiếu bộ sách trọng yếu này được.
Ôi ! Vua là bậc hiền nhà Trần mà có thể tự thân ở ngôi vạn thặng của một nước lớn, lại ý niệm tới bậc Tam Tôn, bỏ áo mũ nhà Vua mà mặc lấy nâu sồng của nông dân; rời ngai rồng mà ngồi đệm cỏ. Không những một thời sửa chùa, xây tháp cúng Phật, độ Tăng, làm lợi ích cho nhân dân, thoát ly cảnh khổ mà thôi đâu, Ngài lại còn đem cách tự mình chuyên cần tu niệm hợp thành một tập kệ văn sám hối, đặt tên là tập sách Khóa Hư để chỉ bảo cho đời sau nữa. Gọi là “Trời sanh một người hiền để thức tỉnh mọi người ngu mê, Trời sanh ra một người giàu để cứu nỗi nghèo của quần chúng”. Vua thực là một vị Phật sống trên thế gian, và cũng là một vị Bồ-tát tái thế vậy.
Tôi kính cẩn đọc văn của Ngài mà lặng cầu lấy tâm ấy, thốt nhiên như mở thấy được ít nhiều. Vì vậy không dám tự giấu sự hèn kém, chắp tay kính lễ chép nhặt mấy lời để ghi đề ngoài sách. Còn như bảo đề tựa thì đâu dám.
Triều Vua Minh Mệnh năm Canh Tí, ngày khánh hỷ, cuối mùa thu, tôi chịu trai giới, Tuần phủ hộ lý Tổng Đốc Ninh Thái, Pháp danh Đại Phương Nguyễn Thận Hiến, tắm gội kính cẩn đề tựa.
Tựa SáchbThiền Tông Chỉ Nam
Trẫm trộm bảo rằng: Phật tánh đại đồng, không chia ra có phương Nam phương Bắc, ở đâu vẫn chỉ là một Phật tánh mà người ta đều có thể lấy sự tu hành để tìm đến. Tánh người tuy có kẻ khôn người ngu, ai cũng nhờ vào sự giác ngộ mới hiểu biết. Cho nên dẫn dụ đám hôn mê về phương pháp tiện lợi, chỉ rõ đường sống chết, đấy là giáo lý chính của Phật, còn như cầm cân nẩy mực cho đời sau, làm khuôn phép cho tương lai, đây là trách nhiệm trọng yếu của các Tiên Thánh. Cho nên Lục Tổ ([1]) có nói:
“Tiên Thánh với đại sư không khác gì nhau”. Đủ thấy giáo lý của Đức Phật còn phải mượn đến sức Tiên Thánh mới truyền bá được ở đời. Nay Trẫm sao lại có thể không lấy trách nhiệm của Tiên Thánh làm trách nhiệm của mình, giáo lý của Phật làm giáo lý của mình được? Và Trẫm từ thuở trẻ thơ có hiểu biết, mỗi khi nghe lời dạy giảng của các Thiền sư, tức thời dập tắt mọi sự nghĩ ngợi, trong lòng hết sức thanh tĩnh. Bấy giờ Trẫm đã có ý ham say Nội Giáo, tìm hiểu Thiền Tông, dốc chí tìm thầy, thành tâm mộ đạo. Song lẽ, ý hướng dầu đã có manh nha mà cái động cơ cảm xúc thì vẫn còn chưa đạt.
Năm mười sáu tuổi, Thái hậu ([2]) chán cõi đời. Trẫm những nằm rơm, gối đất, khóc ra máu mắt, đau như cắt lòng. Trong lúc lo phiền khổ não, không còn bụng nghĩ đến chuyện gì. Chỉ trong vài năm Thái Tổ Hòang đế ([3]) lại cũng tạ thế. Thương mẹ chưa khuây, xót cha càng thấm thía. Bồi hồi ngao ngán khó nguôi nỗi lòng. Trẫm nghĩ tình cha mẹ đối với các con, vỗ về nuôi nấng không thiếu bề gì. Đời con dẫu nát xương tan thịt chưa đủ báo đền được một phần muôn vậy. Huống chi Trẫm xét Thái Tổ Hòang đế mở cơ dựng nghiệp đã rất khó khăn, sửa nước giúp đời lại càng hệ trọng.
Từ khi Ngài đem ngôi báu trao cho ta lúc còn trẻ thơ, ta những sớm khuya canh cánh lo sợ, không một lúc nào rời. Lòng riêng tự nhủ rằng: Ở trên đã không còn cha mẹ để nương nhờ, thì ở dưới cũng e không đáp nổi sự mong mỏi cho dân đen. Biết tính làm sao đây? Rồi cố tìm cố nghĩ:Âu là lui về núi rừng, tìm sang bên Phật giáo để tỏ rõ được điều bí quyết của sống chết và để báo đáp công đức cù lao, như thế cũng chẳng hay lắm sao ! Đây là chí Trẫm đã quyết định.
Triều Thiên Ứng Chính Bình thứ năm, năm Bính Thân (1236) đêm mồng ba tháng tư, Trẫm ăn mặc thoàng phục, đi ra cửa cung bảo tả hữu rằng: “Ta muốn đi chơi nghe ngầm lời dân, để xem chí dân họa may mới biết được sự khó nhọc của họ”.
Lúc đó theo bên cạnh Trẫm chẳng qua độ bảy tám người. Đêm ấy vào giờ Hợi, một mình một ngựa cất lẻn ra đi. Khi sang sông đi về phía Đông, bấy giờ mới thật tình bảo cho tả hữu biết. Họ rất ngạc nhiên, đều ứa nước mắt khóc lóc. Hôm sau giờ Mão đi đến bến đò Đại Than dưới núi Phả Lại, Trẫm e có kẻ biết phải lấy áo che mặt mà qua sông, rồi theo đường tắt lên núi. Đến tối vào nghỉ trong Chùa Giác Hạnh, đợi đến sáng lại đi. Chật vật trèo lội núi hiểm, suối sâu, ngựa mệt không tiến lên được nữa, Trẫm bèn bỏ ngựa vịn vào vách đá mà đi, đến giờ Mùi tới núi Yên Tử. Sáng hôm sau trèo thẳng lên đỉnh núi và vào ra mắt Quốc Sư Trúc Lâm là vị Đại Sa-mônở chùa ấy.
Thấy Trẫm, Quốc Sư mừng rỡ, thung dung bảo Trẫm rằng: “Lão Tăng ở lâu rừng núi, xương rắn mặt gầy, ăn rau răm, cắn hạt dẻ, uống nước suối, chơi cảnh rừng, lòng nhẹ như đám mây nổi (Phù Vân là hiệu của Quốc Sư) nên mới theo gió đến đây. Nay nhà Vua bỏ cái thế nhân chủ, nghĩ đến sự quê hèn của rừng núi, chẳng hay muốn đi tìm điều gì mà tới chốn này?”
Trẫm nghe nói, hai hàng nước mắt tự nhiên ứa ra, bèn bảo Quốc Sư: “Trẫm còn thơ ấu, vội mất hai thân, trơ vơ đứng trên sĩ dân không biết nương tựa vào đâu. Nghĩ lại sự nghiệp Đế vương ngày trước hưng – phế thành – bại bất thoàng. Cho nên Trẫm nay vào núi này chỉ cầu làm Phật, không cầu một vật gì khác”.
Quốc Sư đáp: “Trong núi vốn không có Phật, Phật ở tại trong lòng. Hễ lòng yên lặng mà hiểu biết ấy là Phật thực vậy. Nay nếu nhà Vua giác ngộ được cái tâm ấy, thì sẽ tức thì thành Phật, không phải khổ công tìm ở bên ngoài vô ích”.
Bấy giờ Trần Công ([4])là chú họ của Trẫm, người đã được đức Tiên quân gửi gắm con côi. Ông là em họ Tiên quân. Sau khi đức Tiên quân bỏ thế gian và quần thần, Trẫm tôn làm chức Thái Sư, giúp việc chính sự Nhà nước, nghe tin Trẫm đi khỏi, bèn sai tả hữu chia đi khắp mọi nơi để tìm dấu vết đường của Trẫm. Cả bọn đều tìm đến núi này. Gặp Trẫm, Trần Công thống thiết nói rằng:
– Tôi chịu lời uỷ thác của đức Tiên quân, vâng nhà Vua làm chủ dân thần. Nhân dân trông đợi ở Bệ hạ khác nào con đỏ mong đợi cha mẹ vậy. Huống chi ngày nay những vị Cố Lão trong triều đều là họ hàng thân thích, những sĩ thứ trong nước ai cũng vui vẻ phục theo cho đến đứa trẻ lên bảy cũng biết nhà Vua là cha mẹ dân. Vả lại Thái Tổ vừa mới bỏ tôi mà đi, hòn đất trên nấm chưa khô, lời nói bên tai còn đó, thế mà nhà Vua trốn lánh vào núi rừng, ẩn cư để cầu thoả mãn chí hướng riêng. Tự tôi xem ra: nhà Vua vì mục đích tự tu mà làm như thế thì có thể được, nhưng còn Nhà nước xã tắc thì sao? So ra, để lời khen suông cho đời sau, sao bằng lấy ngay chính thân mình làm người dẫn đường đi đầu cho thiên hạ? Nhà Vua nếu không nghĩ lại, bọn tôi sẽ xin cùng người thiên hạ cùng chết trong ngày hôm nay, nhất định không trở về nữa.
Thấy Thái sư và các Cố Lão quần thần đều không có ý bỏ Trẫm, Trẫm bèn đem lời nói của Thái Sư bảo với Quốc Sư. Quốc Sư nắm lấy tay Trẫm mà nói rằng:
– Phàm làm đấng nhân quân phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình và tâm của thiên hạ làm tâm mình. Nay thiên hạ muốn đón Nhà Vua về cung, Nhà Vua không về sao được? Tuy nhiên sự tìm hiểu về Nội Điển, xin mong Bệ Hạ đừng phút nào quên theo đuổi.
Bởi vậy Trẫm với mọi người trong nước lại cùng về Kinh, cố gắng gượng bước lên ngôi báu. Mười mấy năm trời ròng rã, hễ khi nào có cơ hội nhàn rỗi việc nước bên ngoài, Trẫm lại tụ họp các vị kỳ đức để hỏi đạo tham thiền, cùng các kinh sách nhà Phật, không chỗ nào không tham cứu tìm tòi. Trẫm thoàng ngày hay đọc Kinh Kim Cương. Có lần đọc đến câu: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (Nên sanh ra cái tâm không bám víu vào một tướng nào), đang lúc đặt quyển sách mà thở dài, thì hoát nhiên tự ngộ, bèn đem sự giác ngộ ấy để làm những bài ca này, đặt tên là “THIỀN TÔNG CHỈ NAM”.
Năm đó Quốc Sư ở núi Yên Tử về Kinh, Trẫm mời vào chùa Thắng Nghiêm để bàn in các kinh và đưa tập này cho coi. Coi rồi Quốc Sư ngậm ngùi và nói:
– Lòng của Chư Phật ở cả trong này, sao không khắc in để dạy kẻ hậu học?
Trẫm nghe lời đó bèn sai thợ viết ra chữ Khải truyền cho đem in. Không phải chỉ để dẫn bảo đường mê cho đời sau mà thôi, ý Trẫm còn muốn nối theo công nghiệp đấng Tiên Thánh mà làm cho rộng thêm nữa.
Nhân thế mới tự làm ra bài tựa này.
============================
KINH KHÓA HƯ CỦA VUA TRẦN THÁI TÔNG
Kinh Khóa Hư
Quyển Thượng
Xét đến ngọn nguồn:
Tứ đại vốn là không,
Ngũ uẩn cũng chẳng có.
Do không khởi vọng, vọng thành ra sắc,
sắc thiệt tự chơn không;
Bởi vọng theo không, không lại hiện vọng,
vọng mới ra mọi sắc.
Đã trái lẽ không sanh, không hoá,
Nên mãi thành có hóa, có sanh.
Hoặc sanh Thánh, Hiền, khôn, dại,
Hoặc sanh sừng, vảy, cánh, lông.
Chìm đắm ở bến mê hòai,
Lênh đênh trong bể khổ mãi.
Lờ mờ mù mịt, có biết chi đâu,
Luống cuống luồng cuồng, không sao
tỉnh được,
Hết thảy đều phóng tâm lạc đi,
Không ai hay quay đầu trở lại.
Mặc kệ cho:
Qua lại sáu đường,
Xuống lên bốn núi.
Bốn núi là gì ?
Tức là sanh, già, bịnh, chết.
Nay xin bàn rõ bốn núi, để cho sau này cùng soi.
Kệ Bốn Núi
Bốn non muôn bụi xanh rì,
Tỉnh ra muôn vật có gì gì đâu ?
Con lừa ba cẳng ruổi mau,
Ta vui cỡi nó lên đầu núi cao.
Tầng núi Thứ Nhất
Tầng núi thứ nhất,
Ví thể tướng sanh.
Chỉ vì một niệm nghĩ sai,
Cho nên hiện ra nhiều mối.
Hình hài mượn tinh cha mẹ,
Sanh sản nhờ khí âm dương.
Trong tam tài con người đứng giữa,
Trong vạn vật, con người chí linh.
Chẳng kể bậc trí, hay người ngu,
đều ở trong bào thai tất cả;
Chẳng kể một người, hay muôn họ,
đều về túi kiền khôn như nhau.
Hoặc là mặt trời,
rõ triệu vua Thánh giáng sanh;
Hoặc là các sao,
ứng điềm tôi hiền xuất hiện.
Ngọn bút văn chương,
quét sạch thế trận nghìn quân;
Mưu mô võ lược,
thu được chiến công trăm trận.
Trai khoe dáng tươi ném quả,
Gái khoe vẻ đẹp nghiêng thành.
Một cười đổ nước người,
Hai cười nghiêng thành người.
Ganh danh khoe đẹp,
Tranh lạ đấu kỳ.
Xem ra không lọt lưới luân hồi,
Đáo để vẫn trong vòng sanh hoá.
Tướng sanh người thế,
Ví thể mùa xuân.
Mọi vẻ đều thảy thạnh hưng,
Muôn vật đều thảy tươi tốt.
Một trời sáng đẹp,
nơi nơi hoa thắm liễu xanh;
Muôn dặm phong quang,
chốn chốn oanh kêu bướm liệng.
Kệ Rằng:
Thợ tạo rèn nên vạn tượng hình,
Không đầu không mối cũng không manh.
Lạc lầm: có niệm quên không niệm,
Trái lẽ: không sanh chịu có sanh.
Mũi, lưỡi đã ham hương với vị,
Mắt, tai lại đắm sắc và thanh.
Phong trần lưu lạc dài làm khách,
Ngày cách quê hương vạn dặm xanh.
Tầng núi Thứ Hai
Tầng núi thứ hai,
Ví thể tướng già.
Hình dung dần đổi,
Khí huyết đã suy.
Tướng thì tuổi lớn hình khô,
Ăn thì hết nghẹn lại vướng.
Tóc xanh, má hồng,
giờ biến đổi da gà, tóc hạc;
Áo hoa, ngựa trúc,
nay phải dùng xe bồ, gậy cưu.
Dầu có mắt sáng như Ly Lâu,
coi sắc khôn rõ;
Hoặc có tai thính như Sư Khoáng,
nghe tiếng khó hay.
Tiều tụy như liễu sang thu,
Rã rời như hoa đầu hạ.
Như mặt trời sắp gác Tây sơn,
Như nước xuôi rót về Đông hải.
Tướng già người thế,
Ví thể mùa hè.
Nóng sôi tảng đá, muôn vật đều khô,
Nắng hét chảy vàng, trăm sông hầu cạn.
Hoa tàn liễu nhạt,
trong vườn bên lạch thấy còn đâu;
Bướm nhởn oanh bay,
dưới lá đầu cành đà sắp cỗi.
Kệ Rằng:
Đời người bọt nổi khác chi đâu,
Thọ yểu trời xui chớ vọng cầu.
Cảnh tựa tang du hầu đến tối,
Thân như bồ liễu tạm qua thâu.
Phan Lang bữa trước xanh chòm tóc,
Lữ Vọng ngày nay bạc mái đầu.
Man mác sự đời thôi mặc kệ,
Bóng chiều gác núi nước trôi mau.
Tầng núi Thứ Ba
Tầng núi thứ ba,
Ví như tướng bịnh.
Tuổi đến cõi già,
Bịnh ngày thêm nặng.
Chân tay mỏi mệt, mạch lạc khó thông,
Xương cốt long bong, nhiệt hàn
chẳng thích.
Sai cả cái tánh chân thoàng,
Mất hết cái nguồn thư sướng.
Đứng ngồi khó nhọc,
Co duỗi đau ê.
Mạng tựa ngọn đèn trước gió,
Thân như bọt nổi mặt sông.
Trong lòng hiện ra ma xó,
Mắt nhìn thấy những hoa không.
Hình hài gầy yếu,
ai là Biển Thước chữa cho;
Sức vóc suy vi,
ai là Lư Nhân cứu hộ?
Bạn bè luống công thăm viếng,
Anh em nhọc sức phò trì.
Bịnh nặng hằng tháng chưa thuyên,
Cảm xoàng hằng tuần chưa khỏi.
Tướng bịnh người thế,
Ví thể mùa thu,
Vừa buổi mù sương mới xuống,
Tới kỳ hoa cỏ đều tan.
Cây xanh rừng rậm,
gió vàng một trận thấy lơ thơ;
Ngàn biếc non xanh,
móc ngọc vừa sa thêm lạnh lẽo.
Kệ Rằng:
Âm dương tội phước lẽ xoay vần,
Nên khiến tai nàn báo thế nhân.
Phàm hễ có thân là có bịnh,
Nếu mà không bịnh, cũng không thân.
Trường sanh lầm tưởng đơn làm thuật,
Bất tử không đem thuốc trở xuân.
Xa lánh cõi ma đi sớm quách,
Trở về nuôi lấy tánh thiên chân.
Tầng núi Thứ Tư
Tầng núi thứ tư,
Ví như tướng chết,
Bịnh càng trầm trọng,
Mạng mới cáo chung.
Già nua những hẹn tuổi trăm năm,
Thân thế lại thành ra giấc mộng.
Thông minh khôn giỏi,
khó đương đại hạn có ngày;
Mạnh khoẻ oai hùng,
khôn chống vô thoàng đến lúc.
Vợ trinh hầu thuận,
trở nên độc địa thảm thương;
Em kính anh nhoàng,
phút đã trọn đời cách biệt.
Vật mình lăn đất,
Đập sọ kêu trời.
Tường hoa nhà rộng có làm chi,
Kho ngọc đống vàng vô dụng hết.
Dạ đài khép kín,
luống nghe gió bấc vì vèo;
Tuyền hộ đóng bưng,
chỉ thấy mây sầu ngùn ngụt.
Tướng chết người thế,
Ví thể mùa đông.
Trời đất cùng Thái tuế hết vòng,
Nhựt nguyệt tới Huyền hư hội họp.
Âm tinh cực thịnh,
một vùng mưa tuyết xuống tơi bời;
Dương khí dần tàn,
tám nước giá tuôn càng lạnh lẽo.
Kệ Rằng:
Gió cuồng quét đất phút lung lay,
Thuyền lật ông chài lúc rượu say.
Bốn phía mây lồng, màu tối sẫm,
Một làn sóng gợn, tiếng vang vầy.
Gót mưa đòi trận lần xô đẩy,
Xe sấm bao vòng vội trở xây.
Cát bụi bên trời khi tạm sạch,
Sông dài, trăng lặn mấy canh chầy ?
Bàn Về Sắc Thân
Các người ơi !
Gốc khổ là thân,
Nhân nghiệp là chất.
Nếu cứ lấy thế làm thật,
Tức là nhận giặc làm con.
Người nên xem lại kỹ càng:
Thân này trước khi đầu thai,
nơi nào thấy có;
Niệm nọ gặp hồi duyên khởi,
ngũ uẩn hợp nên.
Vọng sanh thể mạo,
Giả hiện hình dung.
Quên cỗi gốc thực,
Hiện hão huyền xằng,
Hoặc gái hoặc trai,
Hoặc tươi hoặc xấu.
Đều là phóng tâm đi mất,
Tịnh không lui gót trở về.
Giong ruổi đầu đường sanh tử,
Bỏ quên mặt mắt Như Lai.
Bởi vậy chỉ nhìn ngoài mặt,
Nào ai đoái nghĩ trong thân.
Kịp thời sanh đã hóa sanh,
Đến chốn mộng còn nói mộng.
Rập rờn cuồn cuộn,
Bối rối loay hoay,
Lấy “ảo” làm “chân”,
Trái “không” theo “sắc” !
Cán xương khô cài hoa điểm ngọc,
Túi da bẩn đeo xạ xông lan.
Cắt lương the bọc bao máu mủ,
Xâu hoa hột đeo ống phân tro.
Ngoài dầu trang điểm lịch xinh,
Trong vẫn trược nhơ ghê gớm.
Không biết tự xét sượng sùng,
Lại cứ vì thân quyến luyến.
Các người ơi !
Dường như tượng gỗ máy quay,
Chỉ tựa sợi tơ lôi kéo.
Quanh đi quanh lại, vẫn cùng lối sanh,
Khi phóng khi thâu, khác chi xác chết.
Tự gây muôn cách so kè,
Đều bởi sáu căn tranh lộn.
Già, bịnh, chết, chẳng sợ đeo theo,
Tửu, sắc, tài, cứ tham đắm mãi.
Cầu cạnh đầu ruồi tai ếch,
Cam tâm lợi buộc danh ràng.
Ban ngày hết sức cầu may,
Buổi tối hóa ra tưởng mộng.
Chất chứa nghiệp trần như giếng,
Biết đâu mái tóc tựa sương.
Một mai vướng mắc bịnh trầm,
Trăm năm đều về mộng lớn.
Tim gan đau xót, tựa nỗi oán thù,
Da thịt hao mòn, khác chi ma đói.
Còn muốn cầu thọ thân thọ mạng,
Nào hay đâu hại vật hại sanh.
Những mong một kiếp tựa thông già,
Chẳng hiểu tứ chi như nhà dột.
Hồn vía tạm về lối quỉ,
Xác thây còn bỏ cõi người.
Tóc, lông, răng, móng, chưa kịp tiêu,
Nhớt, dãi, bọt, hơi, đà thấy ứa.
Mục nát chảy ròng máu mủ,
Tanh hôi lừng lẫy đất trời.
Đen rợp mắt chẳng dám nhìn,
Xanh lè tâm thiệt đáng sợ.
Chẳng cứ giàu nghèo,
Cũng đều chết mất.
Để trong nhà thì ruồi bu, bọ rúc,
Bỏ ngoài đường thì quạ rỉa, chó tha.
Người đời đều bịt mũi mà qua,
Con hiếu phải lấy nong mà đậy.
Thịt xương bừa bãi,
Thâu nhặt vùi chôn.
Săng bó mặc, một sao lửa nội,
Nấm mồ chôn, muôn dặm non hoang.
Xưa còn tóc mượt má hồng,
Nay đã tro tàn xương trắng.
Khi mưa lệ tưới mây mờ mịt,
Lúc gió sầu lay nguyệt rạng suông.
Khi tàn canh quỉ khóc thần sầu,
Lúc lâu năm ngựa quần trâu phá.
Lửa đốm lập loè bờ cỏ rậm,
Tiếng sâu rền rĩ ngọn dương trơ !
Bia kỷ niệm nửa mờ rêu phủ,
Kẻ mục tiều dày đạp đường ngang.
Xưa dẫu văn chương tót chúng,
hay như tài sắc nghiêng thành;
Đến kỳ nào có khác đường,
rốt mức là cùng một nước.
Mắt bị sắc, lôi về rừng kiếm;
Tai theo tiếng, dẫn đến non đao.
Mũi thoàng ngửi hít khói hôi tanh,
Lưỡi phải nếm ăn viên sắt nóng.
Giội nước đồng sôi thân co quắp,
Bỏ vào vạc nấu ý chua cay.
Trăm năm trong cõi người ta,
Một ngày cõi ngục kể đà dài ghê.
Nếu ai đủ mắt tinh đời,
Phải kíp hồi tâm xem lại.
Cất mình vượt qua biển sanh tử,
Dang tay xé toạc lưới ái ân.
Chẳng nề trai gái, ai cũng nên tu;
Chẳng cứ trí ngu, đều có phước phận.
Nếu chưa thấu tâm Thầy, ý Phật;
Trước hãy chăm trì Giới, niệm Kinh.
Kịp đến lúc
Phật cũng không, Thầy cũng không;
Thì hết biết
Giới nào trì, Kinh nào niệm.
Trong ảo sắc cũng là chân sắc,
Khiến phàm thân hóa thiệt pháp thân.
Phá sáu giặc làm sáu phép thần thông,
Biến tám khổ ra tám điều tự tại.
Nói vậy nhưng:
Người đã vướng vào thân huyễn sắc,
Bỏ được đâu, dính mắc lỡ rồi.
Hỡi này các Phật tử ơi,
Sắc thân ấy khó vô hồi thoát ly.
Nếu chưa thoát, nên nghe bài kệ:
Khối thịt chơn nhơn biết ở đâu,
Hoàng hay là trắng chớ lừa nhau.
Ai hay mây cuốn trong không tịnh,
Móc biếc bên trời dạng núi cao.
Ôi ! Đời chỉ biết vàng là quí, nhưng xét kỹ đến chỗ khinh trọng thực không được bằng mạng người. Ví dụ như một nhà giàu kia, lên làm quan đại tướng, dùng vàng dát vào áo giáp để hộ thân, đến khi chiến trận, đang lúc đao binh giao tiếp có khi phải cởi giáp, vứt gươm mà chạy, chỉ mong cho toàn một thân thôi, còn áo giáp vàng rồi đâu nhìn đến. Thế mới biết vàng tuy là trọng, cũng không thể ví với mạng người là nghĩa thế đó. Nay không hiểu thế, lại quí vật mà rẻ thân. Chẳng biết thân mình có ba điều khó gặp. Những điều gì là ba?
MỘT LÀ: Ở trong sáu đường chỉ người là quí, đến khi tịnh lạc về âm, tối tăm mờ mịt, chẳng biết đường đi. Hoặc vào những ngả: địa ngục, a tu la, súc sanh, ngạ quỉ, chẳng được làm người; ấy là một điều khó gặp đó.
HAI LÀ: Tuy được làm người, sanh nơi mọi rợ, tắm cùng một vũng, ngủ cùng một giường, sang hèn ở lẫn, trai gái nằm chung, chẳng đượm gió nhân, không nhuần phép Thánh; ấy là hai điều khó gặp đó.
BA LÀ: Đã được sanh nơi văn hoá, sáu căn chẳng đủ, bốn thể không tuyền, mù điếc ngọng câm, thậm thọt còng ưỡn, miệng mũi tanh hôi, thân hình thúi lở, thầy chẳng cho tới, chúng chẳng dám gần. Tuy ở trong nơi thanh lịch, cũng như ngoài cõi hoang cùng; ấy là ba điều khó gặp đó.
Nay được làm người, sanh nơi văn hoá, sáu căn toàn vẹn, há chẳng quí sao?
Khắp mặt người đời, cứ mài miệt trong vòng danh lợi, làm nhọc cả xác, mà thương cả thần. Thân mạng là rất trọng mà nỡ bỏ, của cải là rất khinh mà lại tham. Ví với kẻ ăn bánh quên vợ, ngậm cơm quên mép, có khác gì không?
Ấy, thân mạng tuy là chí trọng thật, song cũng chưa trọng bằng chí đạo kia. Thế cho nên Khổng Phu Tử có câu rằng: “Sớm nghe đạo, tối chết cũng cam”. Ông Lão Tử có câu rằng: “Ta có sự lo lớn, là vì ta có thân”. Đức Thế Tôn cầu đạo xả thân cứu hổ, thế chẳng phải là ba đấng Thánh đều khinh thân mà trọng đạo đó sao? Than ôi ! Thân mạng là rất trọng, mà còn nên bỏ để cầu lấy cái “đạo” rất hay, phương chi vàng ngọc châu báu là rất khinh, tiếc làm gì nữa?
Ôi ! Trong ấp mười nóc nhà còn có người trung tín, nữa là khắp mặt người đời, lẽ nào lại không có ai thông minh sáng suốt hay sao? Nếu nghe lời này, phải nên chăm học, đừng có ngờ chi. Kinh có câu rằng: “Một mất thân người, muôn kiếp chẳng lại”, đáng đau đớn xiết bao ! Thế cho nên Khổng Phu Tử có câu rằng: “Người mà không chịu làm, ta cũng chẳng làm sao được” chính là thế đó…
Khuyên Phát Tâm Bồ-đề
Rõ là:
Quang cảnh trăm năm, chỉ trong
phút chốc;
Thân ảo tứ đại, há đặng dài lâu.
Càng ngày càng đắm bể trần,
Mỗi sớm mỗi vương lưới nghiệp.
Chẳng biết một tánh tròn sáng,
Luống đua sáu căn vẩn vơ.
Công danh rất mực,
khác chi đại mộng một trường;
Phú quí kinh người,
khó lánh vô thoàng hai chữ.
Tranh nhơn tranh ngã, kết cuộc
thành không;
Khoe giỏi khoe tài, kỳ cùng chẳng thực.
Gió lửa tan tành không già trẻ,
Núi khe mòn mỏi mấy anh hùng !
Đầu xanh chưa mấy mà tóc bạc đã pha,
Kẻ mừng vừa qua mà kẻ viếng đã tới.
Một bao máu mủ,
lâu năm quyến luyến ân tình;
Bảy thước xương hom,
mặc sức tham lam tiền của.
Thở ra khôn hạn thở vào,
Buổi sáng chẳng gìn buổi tối.
Sông thương chìm nổi buổi nào thôi,
Nhà lửa nấu nung bao thuở hết.
Chẳng muốn rời xa lưới nghiệp,
Chỉ vì chưa có công phu.
Vua Diêm La rẽ đất lại đòi,
Ông Thôi Tướng nào dung rộng hạn.
Ngoảnh cổ người nhà nào có thấy,
Tự mình lưới nghiệp phải sa vào.
Quỉ vương ngục tốt, mặc họ khảo tra,
Cây kiếm núi đao, bó tay không gỡ.
Hoặc giam dưới núi ốc tiêu,
Hoặc ở trong non vây sắt.
Bị vạc dầu, thì muôn tử ngàn sanh,
Phải chém chặt, thì một dao hai đoạn.
Đói ăn sắt nóng,
Khát uống nước đồng.
Mười hai giờ, cam chịu đắng cay,
Năm trăm kiếp, thấy đâu hình bóng.
Chịu đủ tội nghiệp,
Lại bị luân hồi.
Mất hẳn thân người thuở trước,
Đổi ra hình vóc hồi này.
Giắt lông đeo sừng,
Đội yên ngậm sắt.
Lấy thịt nuôi người,
Dùng mình trả nợ.
Sanh bị khổ về dao thớt,
Sống bị nạn những lửa nồng.
Cùng thù oán lẫn,
Cùng nuốt thịt nhau.
Bấy giờ biết hối,
Học đạo không đường.
Chi bằng phải đảm đang ngay,
Đừng để qua đời này lỡ.
Phật Thích Ca,
bỏ cung vua thẳng tới Linh san;
Ông Bàng Công,
đem gia tài ra dìm bể cả.
Chân Võ chẳng chịu làm Vua,
chỉ chăm học đạo;
Lã Ông tu đã thành Tiên,
còn mộ Phật Đà.
Tô Học Sĩ thoàng thân Phật Ấn.
Hàn Văn Công phải kính Đại Điên.
Bùi Công cướp thẻ Thạch Xương,
Phòng Tướng hỏi phép Quốc Nhất.
Diệu Thiện không kén phò mã,
thành Phật tức thì;
Lục Tổ mới gặp khách nhân,
nghe Kinh sực tỉnh.
Đạo thiền nếu không thú vị,
Thánh Hiền sao chịu qui y,
Hoa Lâm khiến hai hổ cảm theo,
Đầu Tử có ba chim báo sáng.
Lý Trưởng giả giải nghĩa kinh,
mà Thiên Trù cúng cổ;
Tu Bồ-đề ngồi nhập định,
mà Đế Thích tung hoa.
Đạt Mạ xách giày về Tây,
Phổ Quang khua chuông bay bổng.
La hán lại hỏi đạo
Hòa thượng Ngưỡng Sơn,
Nhạc Đế xuống thọ giới
Thiền sư Tư Đại,
Kính Sơn đến nay
còn được Long Vương dâng cúng;
Tuyết Phong từ trước
hay sai người gỗ khai san.
Ấy đều nhân do đã nghiệm,
Đừng sanh chán nản mà lui.
Cáo đồng còn nghe pháp Bách Trượng,
Ốc vặn còn hộ Kinh Kim Cương.
Mười nghìn cá nghe hiệu Phật
hóa làm Thiên tử,
Năm trăm dơi nghe tiếng Pháp
đều nên Thánh Hiền.
Trăn nghe Sám mà sanh lên trời,
Rồng nghe Kinh mà hiểu tới đạo.
Ấy vật còn hay tự ngộ,
Sao người mà chẳng hồi tâm ?
Hoặc cứ cắm cổ nhai cơm,
mà suốt đời bỏ lỡ;
Hoặc bị tu hành lạc lối,
mà đạo chánh chẳng tin.
Hay đâu Bồ-đề giác tánh,
người thảy viên thành;
Nào rõ Bát nhã căn lành,
ai ai vẹn đủ.
Chẳng cứ đại ẩn, tiểu ẩn,
Chẳng kể tại gia, xuất gia.
Hỏi chi Tăng tục, chỉ cốt tỏ tâm,
Nguyên chẳng nữ nam, sao nên nệ tướng.
Người chưa hiểu càng chia tam giáo,
Hiểu đến nơi cùng thấu nhất tâm.
Nếu hay phản bổn hòan nguyên,
Đều được kiến tánh thành Phật.
Phương chi:
Pháp Phật khó tìm,
Thân người dễ mất.
Muốn vượt bánh xe lục đạo,
Chỉ có đường tắt nhất thừa.
Nên cầu chánh kiến,
Đừng tín tà sư.
Hiểu hẳn mới có chỗ vào,
Tu được mới hay thoát tục.
Vững bước theo lối thiết thực,
Ngay đầu đội phép hư không.
Dùng ra thì muôn cảnh đều phô,
Buông xuống thì mảy trần chẳng vướng.
Vượt tới nơi sanh tử chẳng dè,
Thấu tới chốn quỉ thần khôn tỏ.
Hoặc phàm hoặc Thánh, vẫn chung
một đường,
Ai oán ai thân, cũng cùng một mũi.
Thực tỉnh như thế,
Còn trệ giữa đường.
Nói chi tam huyền bậc trên,
Cốt tính một nước sau đó.
Hãy nói ngay đây, gì là một nước sau đó ?
Này:
Núi nơi thấp xuống trông trời rộng,
Sen lúc đâm bông ngửi nước thơm.
Kinh Khóa Hư
QUYỂN TRUNG
Cảnh Sách Giờ Dần
Bóng dương hé tang tảng,
Đất tối rạng lần lần.
Chạm lòng trần náo nức,
Lóa mắt sắc tưng bừng.
Xác thúi đừng tham giữ,
Đầu vùi sớm liệu nưng.
Ân cần sáu khóa niệm,
May được đúng cơ chân.
Dâng Hương Buổi Sớm
Phục dĩ:
Bóng thỏ về Tây,
Vầng ô đã rạng.
Chiếu Phạm, họp các dòng thanh tịnh,
Cõi Không, tôn những bậc Thánh Hiền.
Mong thấu tinh đàn,
Kính xông hương báu.
Hương này:
Trồng ở rừng Giới hạnh,
mà tưới bằng nước Thiền định;
Chặt ở vườn Tuệ uyển,
mà róc bằng dao Giải thoát.
Chẳng dùng rìu búa sức người,
Hình thế tự nhiên kết lại.
Đốt cháy nén hương tri kiến,
Kết thành đài mây quang minh.
Lúc hương xông khắp chốn thơm tho,
Khi khói toả đầy trời ngào ngạt.
Nhân nay buổi sớm,
Đốt hương cúng dường.
Dâng Hương
Hương này lấy ở rừng thiền,
Trồng nơi tuệ uyển thiên nhiên ngạt ngào.
Dao giới vót hình núi cao,
Đốt lò tâm nguyện muôn thâu cúng dường.
Dâng Hoa
Hoa tâm cánh nở màu tươi,
Mùi thơm sực nức, hoa trời kém xa.
Phật tiền dâng cúng tâm hoa,
Muôn thu gió nghiệp thổi qua không xàu.
Tâu Bạch
Kính tâu:
Đại Giác thập phương,
Hùng Sư tam thế.
Đường tối tăm, giong đuốc tuệ soi.
Bể khổ sở, thả buồm từ chở.
Trộm nghe:
Canh gà vừa dứt,
Bóng thỏ mới lờ.
Mây khói toả non sông nghi ngút,
Ngựa xe đường sau trước ruổi giong.
Tiếng mai hoa trên lầu mới dứt,
Chén trúc điệp trước cửa hồ phai,
Lơ thơ mày liễu ánh màu hồng,
Lóng lánh mặt hoa nhuần hạt móc.
Vầy đang sáng sớm,
Thương kẻ u mê.
Trong đêm hồn mộng đã mơ màng,
Tỉnh dậy tâm đầu còn bối rối.
Mắt tai đuổi theo thanh sắc,
Mũi lưỡi say đắm vị hương.
Nhà lửa thiêu đốt luôn luôn,
Sông thương đắm chìm mãi mãi.
Tuy đã khai quang khi buổi sớm,
Còn như mê ngủ lúc ban đêm.
Chẳng lo sanh, lão, bịnh, tử vương,
Chỉ bận vợ, con, tiền của vấn.
Các Phật tử ơi:
Gốc thân chẳng vững,
Cổi mạng khôn yên.
Hết thảy các giống đầu đội trời,
Khó thoát tinh mắt lạc xuống đất.
Một mai lỡ sẩy tay,
Muôn kiếp khó lại được.
Mau mau nên nắm lấy mầm lành,
Xa xả chớ chăm tìm quả ác.
Người đều kíp tỉnh,
Ai nấy chăm tu.
Dốc lòng lễ Vô thượng Từ Dung,
Chạm mắt thấy đại quang minh tạng.
Chúng con kính tưởng giờ này định làm khóa lễ sáng sớm.
Sám Hối Nghiệp Căn: Mắt
Dốc lòng sám hối:
Chúng con bởi từ bao nhiêu kiếp tới nay:
Bổn tâm bỏ mất,
Chánh đạo xa vời.
Đọa ba đường khổ,
Bởi sáu căn sai.
Trước chẳng sám hối,
Sau khó kịp theo.
Nghiệp căn mắt là:
Nhân ác ngắm kỹ,
Nghiệp thiện xem sơ.
Lầm nhận không hoa,
Nhác trông bản nguyệt.
Ghét yêu nổi rối,
Tốt xấu đua bày.
Loé mắt vọng sanh,
Mờ đường chánh kiến.
Xanh qua trắng lại,
Tía phải vàng sai.
Coi bao sự bậy,
Chẳng khác kẻ loà.
Gặp người sắc đẹp,
Ngang liếc trộm dòm.
Tự thuở chưa sanh,
Loà ngay mắt chánh.
Thấy ai giàu có,
Giương mắt mải nhìn.
Gặp kẻ bần cùng,
Lờ đi chẳng đoái.
Người khác chết chóc,
Con mắt tráo trưng.
Kẻ thân lìa trần,
Khóc thương rơi máu.
Hoặc thấy Tam Bảo,
Hoặc tới chùa chiền.
Gần tượng thấy Kinh,
Biếng không coi đến.
Điện Phật phòng Tăng,
Gái trai gặp gỡ.
Liếc lại nháy đi,
Mê hoang sắc dục.
Chẳng kinh Hộ Pháp,
Chẳng sợ Long Thần.
Trố mắt ham vui,
Ngẩng đầu không cúi.
Những tội như thế,
Vô lượng vô biên.
Tự căn mắt sanh,
Đọa vào địa ngục.
Trải Hằng sa kiếp,
Mới được thọ sanh.
Dẫu được thọ sanh !
Lại bị mù chột.
Nếu chẳng sám hối,
Sao được tiêu trừ.
Đối trước Phật nay,
Xin sám hối cả.
(Sám hối, đoạn dốc lòng kính lễ Vô thượng Tam Bảo khắp mười phương)
Dốc Lòng Khuyến Thỉnh
Khuyến thỉnh thập phương tam thế Phật,
Các vì Thánh, Hiền, Tăng, Bồ-tát.
Mở lòng vô lượng đại từ bi,
Độ tận chúng sanh sang bến giác.
(Khuyến thỉnh, đoạn dốc lòng kính lễ Vô thượng Tam Bảo khắp mười phương)
Dốc Lòng Tùy Hỷ
Con nay vui vẻ tin theo Phật,
Thành kính hôm mai sám lỗi xưa.
Nguyện sớm qua về thang Thập địa,
Chơn tâm Chánh giác chẳng lùi xa.
(Tùy hỷ, đoạn dốc lòng kính lễ vô thượng Tam Bảo khắp mười phương)
Dốc Lòng Hồi Hướng
Đệ tử hồi tâm cửa đạo về,
Dập đầu kính lễ đức Từ Bi.
Nguyện đem công đức cho sanh chúng,
Nhơn tốt xin thành Chánh Biến Tri.
(Hồi hướng, đoạn dốc lòng kính lễ Vô thượng Tam Bảo khắp mười phương)
Dốc Lòng Phát Nguyện
Một nguyện: Mở toang thấy rõ con đường chánh.
Hai nguyện: Lau sạch không chút dính bụi trần.
Ba nguyện: Coi mọi hình không phần quyến luyến.
Bốn nguyện: Thấy sắc thì chẳng mến, chẳng mê.
Năm nguyện: Kíp phải nhận đường đi cho tỏ.
Sáu nguyện: Mắt tuệ coi sáng sủa viên thành.
Bảy nguyện: Sớm tỉnh giấc mộng mình đang đắm.
Tám nguyện: Chất sáng xưa lại đặng không mờ.
Chín nguyện: Khi xem kíp tiêu trừ ảo hoá.
Mười nguyện: Nơi nom đà tuyệt cả hoa không.
Mười một nguyện: Nhìn xa tít mây mùng sạch cuốn.
Mười hai nguyện: Chớp mắt thì nghiệp chướng sạch lâng.
(Phát nguyện, đoạn dốc lòng kính lễ Vô thượng Tam Bảo khắp mười phương)
Vô Thoàng Buổi Sáng
Đêm tăm vừa mới rạng,
Ánh sáng chiếu đầy sân.
Má hồng gần biến đổi,
Tóc xanh thấy bạc lần.
Chẳng biết ngày tháng gấp,
Còn tranh tài sức phân.
Mệnh tựa đèn trước gió,
Thân như nắng soi băng.
Làm khách trọ chi mãi,
Sớm về đạo chánh chân.
Dâng Hương Buổi Trưa
Phục dĩ:
Vừng dương rực rỡ,
Ánh sáng chói chang.
Xét mặt trời khôn đứng mãi,
Phải tới Phật mà kêu cầu.
Rắp bày lòng tin, dưới bảo toà,
Trước hãy đốt hương, trong lư ngọc.
Hương này:
Tiên thiên hun đốt,
chẳng phải từ bồng đảo sanh ra;
Trái đất thơm lừng,
cũng không ở rừng đàn mọc được.
Khí vị nọ ngạt hơn lan xạ,
Danh phẩm kia thắng cả trầm đàn.
Kìa khói lành bay,
là lửa tam muội đốt;
Thành mây phúc hợp,
bởi khí nhất nguyên phun.
Hết thảy mọi người đều xông ngát mũi,
Khắp vòng trần thế đều thấu đỉnh đầu.
Vì nhơn tu phép sám hối,
Dám bày làm lễ dâng hương.
Nay giữa giờ ngọ,
Đốt hương cúng dường.
Dâng Hương
Hương này lấy ở rừng thiền,
Trồng nơi tuệ uyển thiên nhiên ngạt ngào.
Dao giới vót hình núi cao,
Đốt lò tâm nguyện muôn thâu cúng dường.
Dâng Hoa
Hoa tâm cánh nở màu tươi,
Mùi thơm sực nức, hoa trời kém xa.
Phật tiền dâng cúng tâm hoa,
Muôn thu gió nghiệp thổi qua không xàu.
Tâu Bạch
Kính tâu:
Đại Giác thập phương,
Hùng Sư tam thế.
Trở sáu ngả ra sáu thần thông,
Dẫn chín loài về chín liên phẩm.
Trộm nghe:
Vừng dương đứng bóng tròn xoe,
Tiếng gà láng giềng báo ngọ.
Vẻ hồng trời đang đứng giữa,
Màu xanh liễu mới thấy khoe.
Nắng rọi hoa sân, như ngọc múa,
Gió đưa cành liễu, tựa vàng tô.
Long lanh chói lọi ánh giao đài,
Thấp thoáng trập trùng lồng huệ ngọc.
Thơm lừng lò thú,
trời quang nhật tỏ chốn mây xanh;
Ngủ kỹ gối tiên,
ngày vắng lậu thưa nơi gác tía.
Mùa hạ thì đá sôi vàng chảy,
Mùa đông thì sương lở tuyết tan.
Đứng bóng thì đám bụi thu quang,
Sáng tỏ thì mây mù quét sạch.
Đối cảnh tính trời sáng suốt,
Đang khi tâm địa soi thông.
Thảy đều sáng trưng,
Sạch không đen tối.
Các Phật tử ơi !
Mặt trời đứng bóng thì xế,
Con người có thịnh thì suy.
Hình thể chẳng dài lâu,
Giàu sang không vững mãi.
Chóng nhanh tựa nước dòng sông,
Vì vụt như mây đỉnh núi.
Lúc thoàng chẳng nặn nhân lành,
Ngày khác quyết về lối khổ.
Nên sanh lòng tín,
Quyết bỏ lối nghi.
Sớm mở lòng sáng chư Phật,
Chiếu tan xó tối chúng sanh.
Chúng con kính tưởng giờ này định làm khóa lễ buổi trưa.
Sám Hối Nghiệp Căn: Tai
Dốc lòng sám hối:
Chúng con bởi từ bao nhiêu kiếp tới nay:
Bổn tâm bỏ mất,
Chánh đạo xa vời.
Đọa ba đường khổ,
Bởi sáu căn sai.
Trước chẳng sám hối,
Sau khó kịp theo.
Nghiệp căn tai là:
Ghét nghe pháp chánh,
Thích lóng lời tà.
Mê mất chơn tâm,
Theo lầm thói tục.
Vang rầm đàn sáo,
Lại bảo rồng ngâm.
Văng vẳng mõ chuông,
Coi như ếch ộp.
Bài vè câu ví,
Sực thấy ham ngay.
Văn tán lời Kinh,
Bỏ ra ngoài mái.
Thoảng nghe khen hão,
Khấp khởi yêu cầu.
Biết rõ lời hay,
Hững hờ trối kệ.
Gật gù bạn rượu,
Phấp phới làng chơi.
Tán ngắn bàn dài,
Kề tai áp má.
Hoặc gặp Thầy bạn,
Dạy bảo đinh ninh.
Những lời hiếu trung,
Lấp tai cài chốt.
Thoảng qua tiếng xuyến,
Đã nẩy lòng dâm.
Nghe nửa câu kinh,
Liền như tai ngựa.
Những tội như thế,
Vô lượng vô biên.
Như thể bụi trần,
Không sao đếm hết.
Sau khi hết kiếp,
Lại đọa ba đường.
Hết khổ tái sanh,
Lại phải báo điếc.
Nếu chẳng sám hối,
Sao được tiêu trừ.
Đối trước Phật nay,
Xin sám hối cả.
(Sám hối, đoạn dốc lòng kính lễ Vô thượng Tam Bảo khắp mười phương)
Dốc Lòng Khuyến Thỉnh
Khuyến thỉnh thập phương tam thế Phật,
Các vì Thánh, Hiền, Tăng, Bồ-tát.
Mở lòng vô lượng đại từ bi,
Độ tận chúng sanh sang bến giác.
(Khuyến thỉnh, đoạn dốc lòng kính lễ Vô thượng Tam Bảo khắp mười phương)
Dốc Lòng Tùy Hỷ
Con nay vui vẻ tin theo Phật,
Thành kính hôm mai sám lỗi xưa.
Nguyện sớm qua về thang Thập địa,
Chơn tâm Chánh giác chẳng lùi xa.
(Tùy hỷ, đoạn dốc lòng kính lễ Vô thượng Tam Bảo khắp mười phương)
Dốc Lòng Hồi Hướng
Đệ tử hồi tâm cửa đạo về,
Dập đầu kính lễ Đức Từ Bi.
Nguyện đem công đức cho sanh chúng,
Nhơn tốt xin thành Chánh Biến Tri.
(Hồi hướng, đoạn dốc lòng kính lễ Vô thượng Tam Bảo khắp mười phương)
Dốc Lòng Phát Nguyện
Một nguyện: Nghe các tiếng thảy đều biết đạo.
Hai nguyện: Nghe tiếng khổ sớm biết tu hành.
Ba nguyện: Nghe suốt bốn xung quanh không sót.
Bốn nguyện: Nghe tiếng vui không chút bợn lòng.
Năm nguyện: Nghe lời xằng lâng lâng gió thoáng.
Sáu nguyện: Nghe lời chánh vội lắng cho dành.
Bảy nguyện: Tiếng Phạm ở bên mình luôn mãi.
Tám nguyện: Trống pháp kia đánh phải luôn hồi.
Chín nguyện: Ngài Quan Âm dắt tay chỉ lối.
Mười nguyện: Cùng Khánh Hỷ cùng nổi tiếng hay.
Mười một nguyện: Đang điếc lác tan ngay nghiệp chướng.
Mười hai nguyện: Hai tai này càng sáng càng tinh.
(Phát nguyện, đoạn dốc lòng kính lễ Vô thượng Tam Bảo khắp mười phương)
Vô Thoàng Buổi Trưa
Chớp mắt vừng ô vừa mới mọc,
Quay đầu bóng nhựt đã tròn xoe.
Chỉ tham giấc ngủ say mê mãi,
Nào biết quang âm thấm thoát đi.
Phút chốc hoa cành tươi lại héo,
Quanh co mạng nấm thạnh liền suy.
Ai ơi xin hãy quay đầu lại,
Giong ruổi đường mê mãi thế chi.
Dâng Hương Buổi Chiều
Phục dĩ:
Ráng lẫn lưng trời,
Khói tuôn núi thắm.
Thân tới đàn tràng thanh tịnh,
Sụp lễ Thánh Hiền từ bi.
Mong thấu lòng thành,
Dám châm hương báu.
Hương này:
Bồng đảo giá cao,
Lục dương phẩm lạ.
Nào đâu trầm Lâm Ấp đem dâng,
Chẳng phải dầu Đại Tần tiến cúng.
Khí ngát hơn xạ hương Phong huyện,
Mùi thơm cướp long não Ô Trành.
Riêng chiếm giá cao không địch,
Lừng xa tiếng ngát phi phàm.
Hương báu vừa châm,
trên chiếu phạm
xông thành đàn thế giới;
Lư vàng mới đốt,
chốn toàn tiêu
kết lại thận lâu đài.
Tìm đến kiền thành tan ảo hoá,
Ngửi vào địa ngục hết chua cay.
Nay nhân buổi mặt trời lặn, đốt hương cúng dường.
Dâng Hương
Hương này lấy ở rừng thiền,
Trồng nơi tuệ uyển thiên nhiên ngạt ngào.
Dao giới vót hình núi cao,
Đốt lò tâm nguyện muôn thâu cúng dường.
Dâng Hoa
Hoa tâm cánh nở màu tươi,
Mùi thơm sực nức, hoa trời kém xa.
Phật tiền dâng cúng tâm hoa,
Muôn thu gió nghiệp thổi qua không xàu.
Tâu Bạch
Kính tâu:
Đại Giác thập phương,
Hùng Sư tam thế.
Khoa tuệ kiếm ở chốn rừng tà,
Thổi gió từ vào trong nhà lửa.
Trộm nghe:
Ráng đỏ phủ đầu non,
Mặt trời vừa gác núi.
Giọng ốc đầu thành, nghe thảm đạm,
Tiếng chày ngoài cửa, càng thiết tha.
Thuyền cá vào bến tiếng hát tẻ,
Chim bay về rừng cất cánh mau.
Mặt bãi nhạn bay thoi thóp,
Đầu cành ve hót nỉ non.
Lửa đốm lập loè ngoài nội rộng,
Vành trăng chênh chếch giữa trời cao.
Cửa phên vừa khép, gà lên chuồng,
Đèn đuốc chưa mồi, trâu về lối.
Khách đi quất ngựa như tên vút,
Thuyền về chèo gấp tợ thoi đưa.
Thương kẻ ngu si,
Lại vào đường tối.
Ban ngày kia còn chẳng biết đường,
Lúc tối đó nào hay chỗ ở.
Bọn ấy như người không có mắt,
Cảnh này chỉ khổ kẻ đang mê.
Các Phật tử ơi !
Nên nghĩ vô thoàng thấm thoát,
Đừng tham phù thế xa hoa.
Phải mau thức tánh quay về,
Đừng có phóng tâm đi mất.
Ai nấy quay đầu soi lại,
Chớ nên theo cảnh chuốc ngoài.
Nếu phải tri âm,
Mau nên tiến bộ.
Chúng con kính tưởng giờ này định làm khóa lễ buổi chiều.
Sám Hối Nghiệp Căn: Mũi
Dốc lòng sám hối:
Chúng con bởi từ bao nhiêu kiếp tới nay:
Bổn tâm bỏ mất,
Chánh đạo xa vời.
Đọa ba đường khổ,
Bởi sáu căn sai.
Trước chẳng sám hối,
Sau khó kịp theo.
Nghiệp căn mũi là:
Thoàng tham mùi lạ,
Trăm thức ngạt ngào.
Chẳng thính chân hương,
Năm phần thanh tịnh.
Lan xông xạ ướp,
Chỉ thích tìm tòi.
Giới biến định xông,
Nào từng có ngửi.
Đốt lư trầm bạch,
Trước tượng Chí Tôn.
Cúi đầu hít hương,
Tạt khói mà ngát.
Cứ theo tính thích,
Lờn cả Long Thần.
Chỉ thích ngửi xằng,
Không biết chán mỏi.
Tai đào má hạnh,
Lôi kéo khẳng đi.
Cây giác hoa tâm,
Dắt về chẳng đoái.
Hoặc tới phố chợ,
Hoặc vào bếp đun.
Thấy bẩn thèm ăn,
Ngửi tanh kiếm chén.
Chẳng dè hôi thúi,
Chẳng kỵ cay xông.
Ham thích không thôi,
Như lợn đầm vũng.
Hoặc bịt nước mũi,
Hoặc xỉ nhậy vàng.
Bôi cột quệt thềm,
Làm nhơ đất sạch.
Hoặc nhân say ngủ,
Cửa Phật phòng Tăng.
Hai mũi tuôn hơi,
Xông kinh xung tượng.
Ngát sen thành trộm,
Ngửi khí sanh dâm.
Không biết không hay,
Đều vì nghiệp mũi.
Những tội như thế,
Vô lượng vô biên.
Lúc bỏ mạng rồi,
Ba đường đọa khổ.
Trải Hằng sa kiếp,
Mới lại được sanh.
Dầu có được sanh,
Lại báo ngạt mũi.
Nếu chẳng sám hối,
Sao được tiêu trừ.
Đối trước Phật nay,
Xin sám hối cả.
(Sám hối, đoạn dốc lòng kính lễ Vô thượng Tam Bảo khắp mười phương)
Dốc Lòng Khuyến Thỉnh
Khuyến thỉnh thập phương tam thế Phật,
Các vì Thánh, Hiền, Tăng, Bồ-tát.
Mở lòng vô lượng đại từ bi,
Độ tận chúng sanh sang bến giác.
(Khuyến thỉnh, đoạn dốc lòng kính lễ Vô thượng Tam Bảo khắp mười phương)
Dốc Lòng Tùy Hỷ
Con nay vui vẻ tin theo Phật,
Thành kính hôm mai sám lỗi xưa,
Nguyện sớm qua về thang Thập địa,
Chơn tâm Chánh giác chẳng lùi xa.
(Tùy hỷ, đoạn dốc lòng kính lễ Vô thượng Tam Bảo khắp mười phương)
Dốc Lòng Hồi Hướng
Đệ tử hồi tâm cửa đạo về,
Dập đầu kính lễ đức Từ Bi.
Nguyện đem công đức cho sanh chúng,
Nhơn tốt xin thành Chánh Biến Tri.
(Hồi hướng, đoạn dốc lòng kính lễ Vô thượng Tam Bảo khắp mười phương)
Dốc Lòng Phát Nguyện
Một nguyện: Trừ sạch tà khí thoàng vẩn đục.
Hai nguyện: Hít vào hương tuệ nức mùi thơm.
Ba nguyện: Đóng thành phép chí chơn vô lậu.
Bốn nguyện: Thở duyên trần khôn bấu vào đâu.
Năm nguyện: Đường Tam Bảo quay đầu dắt lại.
Sáu nguyện: Làng tứ sanh cứ hãy xỉ đi.
Bảy nguyện: Thở trừ hết chướng kia phiền não.
Tám nguyện: Ngửi hoa thêm hiểu thấu đạo mầu.
Chín nguyện: Thoàng thông tỏ pháp tu của Phật.
Mười nguyện: Trừ sạch nhân năm chất cay nồng.
Mười một nguyện: Dắt vào chơi mênh mông bể tánh.
Mười hai nguyện: Kéo cho ra biết lánh bến mê.
(Phát nguyện, đoạn dốc lòng kính lễ Vô thượng Tam Bảo khắp mười phương)
Vô Thoàng Buổi Chiều
Cảnh mặt trời gác núi,
Bao giờ tiếc bóng âm.
Chỉ làm theo mã ý,
Nào chịu giữ viên tâm.
Trời mọc tất rồi lặn,
Thân phù lại đến trầm.
Tuổi già hết khôn dại,
Chết mất cùng cựu tân.
Vô thoàng ai kịp lánh,
Đại hạn đến khôn cầm.
Ai nấy làm đạo chánh,
Chớ lạc lối tà tâm.
Kinh Khóa Hư
QUYỂN HẠ
Cảnh Sách Buổi Hoàn Hôn
Bóng ngả nương dâu tối,
Vầng ô thoáng lặng rồi.
Quang âm nào đứng mãi,
Già bịnh cứ trêu người.
Giờ chết khoan sao được,
Ngày đi hết cách lôi.
Ai ơi nên tỉnh sớm,
Chớ mê mẩn qua đời.
Bát Khổ
Sanh thì tất tả long đong,
Già thì gối lỏng răng long mắt loà.
Bịnh làm đau đớn thiết tha,
Chết vì nghiệp ác đọa sa ba đường.
Ái ân ly biệt xót thương,
Oán thù gặp gỡ thêm càng đắng cay.
Cầu mong chẳng được buồn thay,
Ngũ ấm nung nấu biết ngày nào thôi.
Dâng Hương Buổi Hòang Hôn
Phục dĩ:
Lửa đóm trên không,
Đèn chài dưới nước.
Trên đàn đủ các trai tăng,
Trong lư vừa châm hương báu.
Hương này:
Vật không ở núi,
Giống chẳng phải trầm.
Há dễ Thần Long gây được,
Chính là Bồ-tát thu tàng.
Bụi Kê Thiệt giải ăn thứ nhất,
Rừng Ngưu Đầu giá chiếm không hai.
Dùng gươm tuệ chặt,
mà vót bằng dao giới,
coi tướng thanh kỳ;
Lấy nước định rửa,
mà đốt bằng lửa muội,
hơi thơm ngào ngạt.
Không những tại đàn thấy ngát,
Khắp trong mọi chốn đều thơm.
Một sợi hương xông,
Bao đời nghiệp sạch.
Nay buổi mới tối,
Đốt hương cúng dường.
Dâng Hương
Hương này lấy ở rừng thiền,
Trồng nơi tuệ uyển thiên nhiên ngạt ngào.
Dao giới vót hình núi cao,
Đốt lò tâm nguyện muôn thâu cúng dường.
Dâng Hoa
Hoa tâm cánh nở màu tươi,
Mùi thơm sực nức, hoa trời kém xa.
Phật tiền dâng cúng tâm hoa,
Muôn thu gió nghiệp thổi qua không xàu.
Tâu Bạch
Kính tâu:
Đại Giác thập phương,
Hùng Sư tam thế.
Mở rộng đèn tuệ Chư Phật,
Soi tỏ nhà tối chúng sanh.
Trộm nghe:
Tiếng ốc trên lầu mới vắng,
Tiếng trống cầm canh vừa truyền.
Nhà nào nhà nấy đèn sáng trưng,
Chốn nọ chốn kia sáp cháy rực.
Ngoài bãi tía, ngựa dừng tiếng hét,
Giữa ao trong, cá lẩn mất tăm.
Lập loè mặt nước đóm bay qua,
Lấp ló đầu non trăng lặn xuống.
Trước lầu anh võ,
miệt mài cái thú yên hoa;
Bên đài phượng hòang,
say đắm cuộc vui chè rượu.
Cợt gió cười trăng,
Gảy đàn thổi sáo.
Ai nấy đăm đăm duyên trước mắt,
Người đều quên cả việc sau thân.
Các Phật tử ơi !
Nên rõ đường trước khó cất bước,
Đừng ham gối cao ngủ giấc nồng.
Lên giường chưa chắc xuống giường,
Tối này ai hay tối khác.
Cửa đệ nhất nghĩa nên thẳng tới,
Đường tam ác đồ chớ bước vào.
Quay đầu nhận rõ lối quê nhà,
Mở mắt chớ mơ phù thế mộng.
Chúng con kính tưởng giờ này định làm khóa lễ buổi tối.
Sám Hối Nghiệp Căn: Lưỡi
Dốc lòng sám hối:
Chúng con bởi từ bao nhiêu kiếp tới nay:
Bổn tâm bỏ mất,
Chánh đạo xa vời.
Đọa ba đường khổ,
Bởi sáu căn sai.
Trước chẳng sám hối,
Sau khó kịp theo.
Nghiệp căn lưỡi là:
Tham đủ mọi mùi,
Thích rành tốt xấu.
Nếm qua các thức,
Biết rõ béo gầy.
Càng hại mạng vật,
Nuôi sướng tấm thân.
Thái rán loài bay, loài lặn,
Nấu kho giống chạy, giống bơi.
Hành tỏi xông ruột,
Béo gây ngấy mồm.
Ăn rồi xét lại,
Có no mãi đâu.
Hoặc tới đàn chay,
Cầu thần lễ Phật.
Cố chịu nhịn đói,
Đợi lúc việc xong.
Sáng sớm ăn chay,
Nước nhiều cơm ít.
Hệt tựa người đau,
Cố nuốt thuốc cháo.
Mỡ màng đầy mắt,
Cười nói nhởn nhơ.
Ăn thách uống thi,
Lấy nóng bỏ lạnh.
Thết đãi khách khứa,
Dựng vợ gả chồng.
Giết hại chúng sanh,
Đều vì ba tấc.
Nói dối ra tuồng,
Nói thêu nên chuyện.
Hai lưỡi lắt léo,
Ác khẩu gớm ghê.
Chửi mắng Tam Bảo,
Nguyền rủa hai thân.
Mạn Thánh khinh hiền,
Dối cha lừa chúa.
Chê bai người khác,
Che đậy lỗi mình.
Bàn bạc cổ kim,
Khen chê đây đó.
Khoe khoang giàu có,
Lấn hiếp bần cùng.
Xua đuổi Tăng Ni,
Đánh mắng tôi tớ.
Lời gièm như thuốc độc,
Nói khéo tựa vè đàn.
Nhầm lướt lên hay,
Hư kêu là thiệt.
Oán trách nắng rét,
Sỉ nhổ non sông.
Nói đùa trong phòng Tăng.
Làm rầm nơi niệm Phật.
Những tội như thế,
Vô lượng vô biên.
Như thể bụi trần,
Tính không xiết được.
Sau khi chết rồi,
Vào ngục lôi lưỡi.
Cày sắt kéo dài.
Nước đồng rót mãi.
Hết báo địa ngục.
Muôn kiếp mới sanh,
Dầu được làm người.
Lại bị câm nữa !
Nếu chẳng sám hối,
Sao được tiêu trừ.
Đối trước Phật nay,
Xin sám hối cả.
(Sám hối, đoạn dốc lòng kính lễ Vô thượng Tam Bảo khắp mười phương)
Dốc Lòng Khuyến Thỉnh
Khuyến thỉnh thập phương tam thế Phật,
Các vì Thánh Hiền Tăng Bồ-tát.
Mở lòng vô lượng đại từ bi,
Độ tận chúng sanh sang bến giác.
(Khuyến thỉnh, đoạn dốc lòng kính lễ Vô thượng Tam Bảo khắp mười phương)
Dốc Lòng Tùy Hỷ
Con nay vui vẻ tin theo Phật,
Thành kính hôm mai sám lỗi xưa.
Nguyện sớm qua về thang Thập địa,
Chơn tâm Chánh giác chẳng lùi xa.
(Tùy hỷ, đoạn dốc lòng kính lễ Vô thượng Tam Bảo khắp mười phương)
Dốc Lòng Hồi Hướng
Đệ tử hồi tâm cửa đạo về,
Dập đầu kính lễ đức Từ Bi.
Nguyện đem công đức cho sanh chúng,
Nhơn tốt xin thành Chánh Biến Tri.
(Hồi hướng, đoạn dốc lòng kính lễ Vô thượng Tam Bảo khắp mười phương)
Dốc Lòng Phát Nguyện
Một nguyện: Ăn thích mùi ngon pháp vô thượng.
Hai nguyện: Thổ hết thức đời chuộng tanh hôi.
Ba nguyện: Tài biện bác trừ đời mê hoặc.
Bốn nguyện: Thích nói luôn độ thoát quần sanh.
Năm nguyện: Lúc uốn lại chứa thành vô tận.
Sáu nguyện: Dòng pháp mầu hút nhẵn vào trong.
Bảy nguyện: Sớm nhận chốn ông Đại Ngu bỏ.
Tám nguyện: Tiếng Lâm Tế mau tỏ đồng thanh.
Chín nguyện: Lưỡi dài rộng đủ hình như Phật.
Mười nguyện: Sạch trong không còn rớt bụi trần.
Mười một nguyện: Thế gian không ai câm ngọng nữa.
Mười hai nguyện: Địa ngục kia hết cửa kéo cày.
(Phát nguyện, đoạn dốc lòng kính lễ Vô thượng Tam Bảo khắp mười phương)
Vô Thoàng Buổi Hòang Hôn
Mặt trời đã lặn tối lem nhem,
Đường tối bồn chồn lại tối thêm.
Đuốc của người ngoài chăm gợi thắp,
Đèn nhà mình đó chẳng soi xem.
Lừ đừ bóng ác non Tây lẩn,
Lấp lánh vầng trăng ánh bể lên.
Sống chết đổi thay đều thế cả,
Qui y Tam Bảo mới là yên.
Dâng Hương Buổi Nửa Đêm
Phục dĩ:
Giọt lậu canh ba vừa chuyển,
Tiếng kêu hằng vạn đều yên.
Lục hòa Tăng lữ họp đàn nghiêm,
Một nén hương thơm lừng pháp giới.
Hương này:
Âm dương kết tụ,
Trời đất sanh thành.
Vun trồng nào phải công nhất thế,
Gìn giữ là nhờ sức bách thần.
Cội cành tươi tốt,
đã nhuần mưa pháp chứa chan;
Thể chất thanh cao,
nhờ có mây lành che phủ.
Giống lạ chớ đem cây thoàng sánh,
Hương thanh đâu hứa kẻ phàm hay.
Đem tới lư vàng,
vừa mới hun lên trên ngọn lửa;
Kết thành bảo cái,
đã bay nghi ngút đến đầu mây.
Dám bày nghi lễ cúng Thánh,
Chút tỏ lòng tin thông phàm.
Nay buổi nửa đêm,
Đốt hương cúng dường.
Dâng Hương
Hương này lấy ở rừng thiền,
Trồng nơi tuệ uyển thiên nhiên ngạt ngào.
Dao giới vót hình núi cao,
Đốt lò tâm nguyện muôn thâu cúng dường.
Dâng Hoa
Hoa tâm cánh nở màu tươi,
Mùi thơm sực nức, hoa trời kém xa.
Phật tiền dâng cúng tâm hoa,
Muôn thu gió nghiệp thổi qua không xàu.
Tâu Bạch
Kính tâu:
Đại Giác thập phương,
Hùng Sư tam thế.
Ruổi tay vàng tiếp dẫn quần sanh,
Phóng tia sáng soi quang mọi cõi.
Trộm nghe:
Giờ quay sang Tý,
Đêm đã nửa rồi.
Ngọn đèn trông đợi bạc hồ tàn,
Luồng bụi ngoài đường đông đều sạch.
Mấy trận gió mây sanh vạn dặm,
Một vầng trăng tỏ chiếu canh ba.
Lơ thơ rừng trúc ánh màu vàng,
Lấp lánh hoa sân khoe vẻ ngọc.
Hạc oán nín hơi trong trướng huệ,
Vượn thương kêu rít chốn tùng quan.
Xa xa sao gác sông Ngân Hán,
Văng vẳng ma rên chốn nội hoang,
Quốc kêu thảm thiết,
Bướm ngủ mê man.
Thân giả dối bóng lẻ trong rừng,
Hồn vơ vẩn xa đi ngàn dặm.
Đành cho ma ngủ quấy luôn luôn,
Nào biết đuốc tâm thoàng rực rỡ.
Ngoài nhà thần, phách lạc hồn bay,
Trong hang quỷ, tinh vùi mắt nhắm.
Chỉ biết ham mê giấc ngủ,
Nào hay tới chốn Chơn như.
Nên biết một giấc đợi trời sáng,
Lo chi trăm năm lúc tắt hơi.
Các Phật tử ơi !
Nên nghĩ tứ xà bức bách,
Chớ quên nhị thử gậm tha.
Luân hồi tam giới sớm tối thôi,
Quanh quẩn tử sanh ngày nào dứt.
Nên gắng lên lối vãng sanh,
Cần bám vào xe tiếp dẫn.
Cửa ngục nơi nào,
Đêm nay phá vỡ.
Chúng con kính tưởng giờ này định làm khóa lễ nửa đêm.
Sám Hối Nghiệp Căn: Thân
Dốc lòng sám hối:
Chúng con bởi từ bao nhiêu kiếp tới nay:
Bổn tâm bỏ mất,
Chánh đạo xa vời.
Đọa ba đường khổ,
Bởi sáu căn sai.
Trước chẳng sám hối,
Sau khó kịp theo.
Nghiệp căn thân là:
Tinh cha huyết mẹ,
Giả hợp thành hình.
Năm tạng trăm thần,
Cùng nhau kết hợp.
Chấp mình là thiệt,
Quên mất pháp thân.
Tạo sát, đạo, dâm,
Thành ra ba nghiệp.
Nghiệp sát sanh là:
Thoàng làm tàn ác,
Không dạ từ nhơn.
Tàn hại bốn loài,
Biết đâu nhất thể !
Lầm thương cố giết,
Tự làm, sai người.
Hoặc vẽ bùa bèn,
Dùng cách yểm ác.
Hoặc dùng thuốc độc,
Làm hại sanh linh.
Chỉ cốt hại người,
Không hề thương vật.
Hoặc đốt núi chằm,
Hoặc lấp khe suối.
Cắm chài giăng lưới,
Thả cắt xuýt muông.
Thấy nghe mừng thích,
Nghĩ ngợi tưởng làm.
Cử động xoay vần,
Đều là tội cả.
Nghiệp trộm cắp là:
Thấy tiền của người,
Lòng riêng ngỏm ngợi.
Đập khóa mở ngăn,
Sờ bao thò túi.
Thấy của nhà Phật,
Nổi tấm lòng tham.
Cướp làm của riêng,
Không e thần giận.
Không những vàng ngọc,
Mới phạm tội to.
Ngọn cỏ cây kim,
Đều là nghiệp trộm.
Nghiệp tà dâm là:
Lòng mê thanh sắc,
Mắt đắm phấn son.
Chẳng đoái nết trinh,
Những sanh tư dục.
Hoặc ở nơi sạch,
Điện Phật phòng Tăng.
Đụng chạm gái trai,
Cùng nhau đùa bỡn.
Tung hoa ném quả,
Séo cẳng vỗ vai.
Khoét ngạch trèo tường,
Đều thành dâm nghiệp.
Những tội như thế,
Vô lượng vô biên.
Đến lúc chết rồi,
Sa vào địa ngục.
Trai ôm cột đồng,
Gái nằm giường sắt.
Muôn kiếp mới sanh,
Lại vương tội báo.
Nếu không sám hối,
Sao được tiêu trừ.
Đối trước Phật nay,
Xin sám hối cả.
(Sám hối, đoạn dốc lòng kính lễ vô lượng Tam Bảo khắp mười phương)
Dốc Lòng Khuyến Thỉnh
Khuyến thỉnh thập phương tam thế Phật,
Các vì Thánh, Hiền, Tăng Bồ-tát.
Mở lòng vô lượng đại từ bi,
Độ tận chúng sanh sang bến giác.
(Khuyến thỉnh, đoạn dốc lòng kính lễ Vô thượng Tam Bảo khắp mười phương)
Dốc Lòng Tùy Hỷ
Con nay vui vẻ tin theo Phật,
Thành kính hôm mai sám lỗi xưa.
Nguyện sớm qua về thang Thập địa.
Chơn tâm Chánh giác chẳng lùi xa.
(Tùy hỷ, đoạn dốc lòng kính lễ Vô thượng Tam Bảo khắp mười phương)
Dốc Lòng Hồi Hướng
Đệ tử hồi tâm cửa đạo về,
Dập đầu kính lễ đức Từ Bi.
Nguyện đem công đức cho sanh chúng,
Nhơn tốt xin thành Chánh Biến Tri.
(Hồi hướng, đoạn dốc lòng kính lễ Vô thượng Tam Bảo khắp mười phương)
Dốc Lòng Phát Nguyện
Một nguyện: Mạng căn mau mau thành tuệ mạng.
Hai nguyện: Thể tướng này biến chứng chơn thân.
Ba nguyện: Gieo đầu núi mong tầm phép lớn.
Bốn nguyện: Xuống hầm lửa thấu hẳn nhơn sâu.
Năm nguyện: Đốt xác này đền bù sức Phật.
Sáu nguyện: Đập tủy ra báo đức ơn Thầy.
Bảy nguyện: Xin đầu cũng cho ngay chẳng tiếc.
Tám nguyện: Khoét mắt ra vẫn thích làm thân.
Chín nguyện: Nhồi sáp thơm không phần vui thú.
Mười nguyện: Cắt thịt đi chẳng có giận hờn.
Mười một nguyện: Đời đời không ái ân trăng trói.
Mười hai nguyện: Kiếp kiếp xa những lối bụi trần.
(Phát nguyện, đoạn dốc lòng kính lễ Vô thượng Tam bảo khắp mười phương)
Vô Thoàng Buổi Nửa Đêm
Muôn tiếng vừa yên lặng,
Canh ba trống mới hồi.
Quốc kêu đang thảm thiết,
Giấc bướm vẫn miệt mài.
Kiến lẩn cây hoè mục,
Cá ngoi mặt nước bơi.
Không coi vầng trăng mọc,
Những mến đóa hoa cười.
Lạc nhà xa ngàn dặm,
Giấc ngủ vẫn tham hòai.
Chẳng biết thân là giả,
U mê suốt một đời.
Dâng Hương Buổi Quá Đêm
Phục dĩ:
Chuôi sao quay Bắc,
Sông Hán về Tây.
Giấc bướm bên gối còn say,
Tiếng ốc trên lầu hồ dứt.
Sắp hàng tăng chúng tới Pháp đàn,
Trước tượng Thế Tôn dâng hương báu.
Hương này:
Trồng ở cung trăng đem lại,
Rễ ăn trong núi quấn quanh.
Dáng màu khác tục,
Thể chất vô trần.
Xa vượt Tước Đầu nước Ngô nọ,
Cao hơn Quy Giáp rừng Quế kia.
Đốt lên tắt ngay lửa giận,
Xông ra nhờ trận gió từ.
Nào phải giống thơm hạ phẩm,
Thực là mùi lạ thượng phương.
Mảnh khảnh như tơ hồng khí đẹp,
Ngạt ngào mùi tốt hóa điềm lành.
Nghi ngút trước nơi bảo tọa,
Tờ mờ ngoài chốn rèm châu.
Quay đầu tìm kiếm,
quang minh nơi đó tự nhiên sanh;
Thấy mặt ngát mùi,
tịch diệt bởi đây thân chứng được.
Nay buổi quá đêm,
Đốt hương cúng dường.
Dâng Hương
Hương này lấy ở rừng thiền,
Trồng nơi tuệ uyển thiên nhiên ngạt ngào.
Dao giới vót hình núi cao,
Đốt lò tâm nguyện muôn thâu cúng dường.
Dâng Hoa
Hoa tâm cánh nở màu tươi,
Mùi thơm sực nức, hoa trời kém xa.
Phật tiền dâng cúng tâm hoa,
Muôn thu gió nghiệp thổi qua không xàu.
Tâu Bạch
Kính tâu:
Đại Giác thập phương,
Hùng Sư tam thế.
Rót cam lộ cứu kẻ cơ cầu,
Cầm thần châu soi nơi tăm tối.
Trộm nghe:
Sâu kêu năm dạo,
Gà giục ba hồi.
Bóng đuốc tiệc mồi hồ tàn hết,
Bóng sao Ngân Hán đã lặn rồi.
Giấc điệp lại quay về thế mộng,
Tiếng chuông khua tán chốn âm thầm.
Trăng mờ vừa ngậm vành non biếc,
Trời đỏ chưa nhô mặt biển xanh.
Tiếng sâu tường cổ gấp kêu,
Vó ngựa đường quan mới động.
Mù mịt đầu thành khói nhạt bay,
Lả tả ngoài trời móc sớm tỏa.
Chính là lúc đạo sĩ triều chân,
Vừa giữa buổi Tăng già hành đạo.
Ngàn nhà muôn họ cửa còn đóng,
Một đêm sáu dạo công đã thành.
Đường thế mịt mùng,
Quần sanh tất tả.
Tuy kinh giấc ngủ ôm gối nằm,
Chửa tỉnh trọn đời mở mắt dậy.
Các Phật tử ơi !
Nếu cứ suốt đêm chơi túng tứ,
Thì thấy trọn ngày tâm tối tăm.
Đến nỗi trăng trói một đời,
Đều do vẩn vơ hai chữ.
Vì ngươi chỉ mở tia sáng soi,
Để lại sau này mà tự xét.
Nên biết mạng người vô thoàng,
Chớ để lúc này lỡ mất.
Phải thấy Đại Bi ngay trước mắt,
Phải nhìn Chánh Giác tự trong lòng.
Nếu hay đảm đang nhận ngay,
Liền được hiển hiện luôn đó.
Chúng con kính tưởng giờ này định làm khóa lễ quá đêm.
Sám Hối Nghiệp Căn: Ý
Dốc lòng sám hối:
Chúng con bởi từ bao nhiêu kiếp tới nay:
Bổn tâm bỏ mất,
Chánh đạo xa vời.
Đọa ba đường khổ,
Bởi sáu căn sai.
Trước chẳng sám hối,
Sau khó kịp theo.
Nghiệp căn ý là:
Nghĩ vơ nghĩ vẩn,
Không lúc nào dừng.
Mắc mứu tình trần,
Lấp tâm chấp tướng.
Như tằm kéo kén,
Càng buộc càng bền.
Như ngài vào đèn,
Tự thiêu tự đốt.
Tối tăm không tỉnh,
Nghiêng ngửa sanh xằng.
Khuấy rối tấc lòng,
Đều do tam độc.
Tội keo tham là:
Mưu ngầm ghen ghét,
Keo cú vơ cào.
Một vốn ngàn lời,
Còn cho chưa đủ.
Tiền như nước chứa,
Lòng tựa chén rò.
Rót vào lại hết,
Nên nói chưa đầy.
Tiền mục thóc vàng,
Không cứu đói rét.
Lụa chồng là chất,
Nào có giúp cho.
Được người mấy trăm,
Chưa nói là nhiều.
Hại mình một đồng,
Làm như hao lớn !
Trên từ của quý,
Dưới đến tơ gai.
Kho đụn chất đầy,
Chưa từng bố thí.
Biết bao nhiêu sự,
Ngày tính đêm lo.
Khổ tứ lao thần,
Đều theo tham nghiệp.
Tội sân nộ là:
Lấy tham làm gốc,
Lửa sân bốc ngay.
Quắc mắt quát to,
Đốt thương hòa khí.
Không những kẻ tục,
Cả đến chúng Tăng.
Kinh Luận bàn pha,
Cùng nhau công kích.
Chê cả Sư Trưởng,
Nhiếc đến Mẹ Cha !
Héo lá úa cành,
Nồng nàn lửa độc.
Buông lời tổn vật,
Cất tiếng hại người.
Không nghĩ từ bi,
Không theo luật cấm.
Bàn suông tựa Thánh,
Tới cảnh như ngu.
Dẫu ở không môn,
Chưa thành vô ngã.
Như cây sanh lửa,
Lửa cháy đốt cây.
Những lỗi trên đây,
Đều do sân nghiệp.
Tội ngu si là:
Tín căn ngoan độn,
Ý thức tối tăm.
Không biết tôn ti,
Không chia thiện ác,
Chặt cây đau xác.
Giết gấu gãy tay.
Nhiếc Phật thành tai,
Nhổ Trời ướt mặt !
Quên ơn quên đức,
Bội nghĩa bội nhân.
Không xét không hay,
Đều vì si nghiệp.
Những tội như thế,
Rất nặng rất sâu.
Đến khi chết rồi,
Đọa vào địa ngục.
Trải ngàn ức kiếp,
Mới được thác sanh.
Dầu được thác sanh,
Bị báo ngoan ác.
Nếu chẳng sám hối,
Sao được tiêu trừ.
Đối trước Phật nay,
Xin sám hối cả.
(Sám hối, đoạn dốc lòng kính lễ Vô thượng Tam Bảo khắp mười phương)
Dốc Lòng Khuyến Thỉnh
Khuyến thỉnh thập phương tam thế Phật,
Các vì Thánh, Hiền, Tăng Bồ-tát.
Mở lòng vô lượng đại từ bi,
Độ tận chúng sanh sang bến giác.
(Khuyến thỉnh, đoạn dốc lòng kính lễ Vô thượng Tam Bảo khắp mười phương)
Dốc Lòng Tùy Hỷ
Con nay vui vẻ tin theo Phật,
Thành kính hôm mai sám lỗi xưa.
Nguyện sớm qua về thang Thập địa
Chơn tâm Chánh giác chẳng lùi xa.
(Tùy hỷ, đoạn dốc lòng kính lễ vô lượng Tam Bảo khắp mười phương)
Dốc Lòng Hồi Hướng
Đệ tử hồi tâm cửa đạo về,
Dập đầu kính lễ đức Từ Bi.
Nguyện đem công đức cho sanh chúng,
Nhơn tốt xin thành Chánh Biến Tri.
(Hồi hướng, đoạn dốc lòng kính lễ Vô thượng Tam Bảo khắp mười phương)
Dốc Lòng Phát Nguyện
Một nguyện: Nguồn linh thoàng một màu trong vắt.
Hai nguyện: Tạng thức kia hết đất lân la.
Ba nguyện: Mối ngờ vực phá ra tan tác.
Bốn nguyện: Trăng định soi thoàng được đoàn viên.
Năm nguyện: Pháp trần lặng không lên không diệt.
Sáu nguyện: Lưới ái ân dứt tuyệt giằng co.
Bảy nguyện: Ngôi Thập địa toan lo cho được.
Tám nguyện: Cõi Tam Thiên thấu thực bỏ nguy.
Chín nguyện: Tâm viên hết giơ tay lên nữa.
Mười nguyện: Ý mã không phải lựa dây cương.
Mười một nguyện: Lòng vui vẻ theo gương Phật giáo.
Mười hai nguyện: Tính thích ưa thấm đạo tham thiền.
(Phát nguyện, đoạn dốc lòng kính lễ Vô thượng Tam Bảo khắp mười phương)
Vô Thoàng Buổi Quá Đêm
Trống pháp dạo tan phù thế mộng,
Chuông chùa khua động khắp gần xa.
Vẫn ham giấc ngủ đang mài miệt,
Chẳng quản vầng đông đã chói loà.
Vằng vặc đêm trường còn có sáng,
Mịt mù lối quỷ khó tìm ra.
Nay không cố gắng công trau đạo,
Ngày khác làm sao gặp Phật Đà.
Cảnh Sách Chung
Sanh, già, bịnh, chết,
Lẽ thoàng tự nhiên.
Muốn cầu giải thoát,
Lại càng rối ren.
Mê mà cầu Phật,
Hoặc mà cầu thiền.
Thiền không cầu nữa,
Ngậm miệng ngồi yên.
============================
KINH TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG
Chương 2
Sanh Tức Hữu Diệt
Đời Người
Phật hỏi thầy Sa môn:
– Đời người bao lâu vậy ?
– Kính bạch Đức Thế Tôn,
Đời người trong vài bữa.
Phật dạy: “Chưa tỏ ngộ”.
Lại cũng đem một câu,
Hỏi Sa-mônkhác nữa:
– Đời người được bao lâu ?
– Kính bạch Đức Thế Tôn,
Lời của vị Sa môn:
– Đời người xem ngắn ngủi,
Chừng bằng một bữa cơm.
Phật dạy: “Chưa tỏ ngộ”.
Lại cũng đem một câu,
Hỏi Sa-mônkhác nữa:
– Đời người được bao lâu ?
– Đời người ngắn quá độ,
Theo ý kém của con,
Chỉ bằng một hơi thở,
Kính bạch Đức Thế Tôn.
Phật dạy: “Hay lắm a,
Thầy hiểu đạo cao xa,
Đời người trong cõi thế,
Khoảnh khắc thở hơi qua”.
Chương 3
Tài Sắc Chiêu Khổ
Đứt Lưỡi
Miếng ngon vật tốt cảnh sang giàu,
Thấy đó như tuồng mật dính dao.
Trẻ dại miệng kề toan nếm thử,
Nào ngờ lưỡi đứt khóc thương đau !
Chương 5
Giả Chơn Tịnh Quán
Võ Trụ
Thăm thẳm bao la khoảng đất trời,
Người hơn muôn vật giữa trần ai.
Nghiệp duyên thay đổi phàm nên Thánh,
Chánh pháp truyền ban đạo cứu đời.
Chương 8
Chuyển Trọng Linh Khinh
Hối Lỗi
Phật dạy người có lỗi,
Không ăn năn sám hối.
Tội ấy chất vào thân,
Nặng nhiều thêm gấp bội.
Như nước dần về biển,
Càng ngày càng rộng sâu.
Còn như người có lỗi,
Biết sám hối hồi đầu.
Đổi dữ làm lành rồi,
Các tội bèn tiêu diệt.
Như bịnh xuất mồ hôi,
Thuyên giảm rồi dứt tuyệt.
Chương 11
Nhẫn Ác Vô Sân
Bình Tĩnh
Phật dạy các đệ tử:
Như có người hung dữ,
Nghe các ngươi làm lành,
Muốn đến phá khuấy thử.
Các ngươi nên nhẫn nhục,
Đừng khởi lòng giận sân.
Họ đem điều ác đến,
Họ chác ác vào thân.
Chương 12
Niệm Giới Cận Đạo
Giới Luật
Phật dạy hàng đệ tử:
Tuy ngàn dặm xa ta,
Mà Giới luật biết giữ,
Quyết đắc đạo không xa.
Trái lại kẻ phạm giới,
Dầu có ở gần ta,
Đạo mầu không đạt tới,
Kẻ ấy thật cách xa.
Chương 13
Giáo Hối Vô Sai
Phải Tin Phật
Pháp Phật như đường mật,
Vị nào cũng ngọt ngào.
Chương 16
Sắc Dục Chướng Đạo
Chỉ Có Một
Bao nhiêu nghiệp dữ hại mình,
Chỉ duy có thứ dục tình mạnh ghê.
Người tu vượt khỏi lưới mê,
Quả linh Vô thượng Bồ-đề một bên.
Chương 18
Dục Hỏa Viễn Ly
Cỏ Khô
Phật dạy người học đạo,
Như kẻ ôm cỏ khô,
Phải tránh xa lửa đỏ,
Tình thương muốn nhiễm ô.
Chương 19
Ngã Không Bố Diệt
Lo Sợ
Vì lòng thương muốn nên lo,
Vì lòng thương muốn làm cho sợ sùng.
Ai mà dứt mối yêu thương,
Chẳng còn lo lắng chẳng phương sợ sùng.
Chương 21
Chánh Quán Địch Sắc
Phụ Nữ
Phật dạy thầy Sa môn:
Chớ ngắm nhìn sắc đẹp,
Chớ giao tiếp đàn bà.
Bằng có chuyện cần nói,
Phải chánh tâm nghĩ qua:
Ta là vị Sa môn,
Ở trong đời uế trược,
Cũng như cánh hoa sen,
Bùn nhơ không dính được.
Rồi dùng pháp quán tưởng,
Tính tuổi tác mà xem.
Tưởng người già như mẹ,
Tưởng người trẻ như em.
Tưởng người lớn như chị,
Tưởng người bé như con.
Lại phát tâm giải thoát,
Độ mình, độ người luôn.
Chương 24
Ý Mã Mạc Túng
Ý Của Người
Phật dạy thầy Sa môn:
Chớ nên tin ý vọng,
Ý vọng chẳng khá tin.
Chớ nên gần sắc đẹp,
Gần sắc đẹp họa sanh.
Bao giờ chứng La Hán,
Tâm ý mới nên tin.
Chương 26
Xả Ái Đắc Đạo
Nước Xao Động
Kẻ ái dục đậm nồng,
Thì đạo mầu khó thấy.
Ví như lu nước trong,
Cứ thò tay quậy khuấy.
Bóng hình kẻ đến xem,
Thấy đâu hình bóng ấy.
Người ái dục rối ren,
Chơn tâm bị che đậy.
Vậy nên các Sa môn,
Diệt trừ ái dục quấy.
Ái dục diệt trừ rồi,
Đạo mầu tỏ ngộ vậy.
Chương 34
Thí Phạn Chuyển Thắng
Cúng Dường
Chơn Phước Cúng Dường
Đức Phật có dạy rằng:
Cho cơm trăm kẻ ác,
Không bằng một người lành.
Cho cơm ngàn người lành,
Không bằng người ngũ giới.
Cho muôn người ngũ giới,
Không bằng vị Đà Huờn.
Cúng dường mười muôn vị,
Đắc quả Tu Đà Huờn,
Không bằng cúng một vị,
Đắc quả Tư Đà Hàm.
Cúng dường một triệu vị,
Đắc quả Tư Đà Hàm,
Không bằng cúng một vị,
Đắc quả A Na Hàm.
Cúng dường mười triệu vị,
Đắc quả A Na Hàm,
Không bằng cúng một vị,
Đắc quả A La Hán.
Cúng dường trăm triệu vị,
Đắc quả A La Hán,
Không bằng cúng một vị,
Đắc quả Phật Bích Chi.
Cúng dường ngàn triệu vị,
Đắc quả Phật Bích Chi,
Không bằng cúng một vị,
Như Lai trong ba đời.
Cúng dường khắp thập phương,
Như Lai trong tam thế,
Không bằng phép cúng dường,
Mà tâm không chấp tướng.
Trí không hề niệm tưởng,
Đến phước báo cúng dường,
Ấy chơn phước cao thượng.
Không phước nào sánh đương.
Chương 39
Xử Trung Đắc Đạo
Dây Đờn
Có một vị Tăng sanh,
Thâu đêm thức tụng kinh,
Tiếng u buồn ngao ngán,
Lòng chán nản tu hành.
Phật kêu lại hỏi han:
– Hồi thầy ở thế gian,
Làm nghề chi đó vậy ?
– Bạch Phật, con khảy đàn.
Hỏi: Dây dùn thì sao ?
Đáp: Dây dùn không tiếng.
– Còn dây thẳng thì sao ?
– Dây thẳng không uyển chuyển.
– Còn đờn lên đúng dây ?
– Dây vừa đúng rất hay !
Đức Phật nhơn đó nói:
– Này Sa-môncác thầy,
Học đạo như khảy đàn,
Phải giữ mực thăng bằng,
Chớ thái quá bất cập,
Thì nên đạo dễ dàng.
Nếu hành khổ quá sức,
Phải mệt nhọc xác thân,
Xác thân khi mệt nhọc,
Sẽ tán loạn tinh thần.
Tinh thần bằng tán loạn,
Tu học phải trễ chầy.
Trễ chầy sự tu học,
Thói xấu ắt nhiễm lây.
Phải giữ mực trung đạo,
Là khoẻ khoắn an nhiên,
Là nhẹ nhàng giải thoát,
Đường tu niệm vĩnh miên.
Chương 40
Cắt Ái Khử Tham
Sa Môn
Cạo tóc làm Sa môn,
Theo đạo Đức Thế Tôn,
Phải bỏ hết của cải,
Ôm bát đi xin cơm.
Giữa ngày ăn một bữa,
Gốc cây ngủ qua đêm.
Giữ đúng y luật Phật,
Đừng mong muốn gì thêm.
Cũng vì lòng thương muốn,
Làm cho người mê lầm.
Diệt bỏ lòng thương muốn,
Liền thấy rõ đạo chân.
============================
KỆ TRÍCH LỤC
Trong quyển “Đức Phật và Phật Pháp” của Đại Đức Narada (từ văn xuôi phổ ra văn vần)
Cùng Quý Sư Cô,
Quyển “Đức Phật và Phật Pháp” là quyển sách rất cần thiết cho Ni giới Khất Sĩ chúng ta. Quyển sách này đặc sắc nhờ tác giả uyên thâm kinh điển Nam Tông, nhất là những đoạn trích diễn Kinh Pàli có bằng chứng cụ thể. Vì muốn thấm nhuần những giáo lý dễ thuộc, dễ nhớ nên tôi cố diễn ít đoạn trong sách này ra văn vần để tiện đọc tụng.
Tuy nhiên, cũng có ít bài chỉ nhờ vào câu gợi ý rồi tôi thêm phần sáng tạo, vì đây là những bài phụ thuộc nhằm tăng bổ kiến thức và lòng hâm mộ giáo lý mà thôi. Thí dụ như hai bài kệ đầu tiên là do rút ý ở bài “LỜI TỰA” của quyển sách.
Xin quý vị đối chiếu hai bổn rồi nghiên cứu và góp ý xây dựng cho hòan hảo hơn.
Quyển “Đức Phật và Phật Pháp” là một nguồn thơ vô tận đối với những người con Phật, chúng ta nên bắt nguồn từ đây để sáng tác hầu ca ngợi đạo thiêng.
Để đáp tạ quý vị gánh vác Phật sự thay thế tôi trong thời kỳ tịnh dưỡng, nên công đức này xin hồi hướng đến quý vị và nguyện đồng về xứ Phật với nhau.
Về tập này chỉ quay đủ số chia cho quý Sư cô và làm tài liệu hoặc chỉ các em Phật tử học (chưa in được). Số đề ngay đầu bài kệ là số trang trong quyển “Đức Phật và Phật Pháp”.
Ni Trưởng Thích Nữ HUỲNH LIÊN
KỆ TRÍCH LỤC
Trang 4:
Ngàn năm dân tộc trưởng thành,
Từ trong tổ ấm gia đình đạo thiêng.
Đàn con giống mẹ dịu hiền,
Thành phần di sản thiêng liêng tuyệt vời.
Trang 6:
Hãy sử dụng thời giờ xứng đáng,
Kiếp sống còn rất ngắn ai ơi.
Thực hành đạo pháp độ đời,
Cho quê hương được nguồn vui thanh bình.
Trang 13:
Dứt các điều ác,
Làm các điều lành,
Thanh lọc tâm ý.
Lời Phật dạy rành.
Trang 14:
Trường tu học như trường tranh đấu,
Vọng tâm là địch thủ hiểm nguy.
Tận trừ tham dục sân si,
Kiên trì tam học hộ trì chân tâm.
Chốn tịch mịch trầm ngâm nghĩ ngợi,
Đó là phương thắng lợi dễ dàng.
Gần thiện tri thức dẫn đường,
Không lo thảm hại chiến trường mạng chung.
Trang 14:
Con người sanh ra không phải để phục vụ Phật giáo. Nhưng Phật Giáo được thành lập là để phục vụ con người.
Trang 15:
Ngày ngày cuốc đất Tây Phương,
Trồng hoa Bát Nhã xông hương Bồ-đề.
* * *
Tin ta mà chẳng hiểu ta,
Ấy là bài bác, ấy là khinh chê.
* * *
Phật truyền cao thượng Pháp môn,
Thật hành đúng đắn là tôn trọng Ngài.
Trang 23:
Một chúng sanh duy nhất,
Một nhân vật phi thoàng.
Vì hạnh phúc nhân loại,
Mà xuất hiện thế gian.
(Tăng Nhất A Hàm)
Trang 58:
Hoa sen tinh khiết thơm tho,
Mọc lên giữa chốn bùn nhơ ao tù.
Đức Phật trí, dũng, bi, từ,
Hiện ra giữa chốn phàm phu tục trần.
Trang 60:
Ta là hải đảo của ta,
Nương mình vững chắc hơn là nương ai.
Trang 61:
Phật là một người thoàng,
Trở thành bậc phi thoàng.
Nhờ tự lực tu chứng,
Đạo quả chẳng ai ban.
Trang 64:
Đức Phật
Tinh hoa toàn thiện tự phương Đông,
Đức Phật cao siêu mức tột cùng.
Chứng quả Niết-bàn vươn tự lực,
Vạch đường giải thoát rạng kỳ công.
Từ bi cứu khổ lòng vô ngại,
Trí huệ ban vui cõi đại đồng.
Thế giới chuyển mình phăng ánh sáng,
Tinh hoa toàn thiện tự phương Đông.
Trang 65:
Nơi Đức Phật, con người thực tế,
Không thần linh tô vẽ hoang đường.
Lòng nhiệt thành nếp sống giản đơn,
Tự nỗ lực phát huy ánh sáng.
Dạy nhân loại những lời chánh đáng,
Bao gian lao hoạn nạn đời ta.
Đều do lòng ích kỷ sanh ra,
Tu chuyển hướng lợi tha phục vụ.
Trước khi hạnh trang nghiêm đầy đủ,
Trước khi tâm vắng lặng hòan toàn,
Ngưng sống cho mình kiểm soát giác quan,
Khi đắc quả vượt trên nhân loại.
Lời trong sạch đem ra chỉ dạy,
Kêu gọi người hãy tự quên mình.
Đem tình thương phổ cập nhân sanh,
Tạo đời sống an lành hạnh phúc.
Lời giáo huấn luôn luôn chân thật,
Thời cơ nào, nhân vật nước nào.
Quan niệm nay, thế hệ tân trào,
Vẫn tương hợp ngàn xưa giáo lý.
Trang 71:
Bồ-đề
Người nào đã lánh xa thế tục,
Thanh lọc tâm thu thúc lục căn.
Không còn ngã mạn kiêu căng,
Sống đời phạm hạnh gọi rằng Thánh nhơn.
Trang 72:
Thật là hạnh phúc,
Sống ẩn dật thoát trần.
Thật là hạnh phúc,
Biết thu thúc lục căn.
Thật là hạnh phúc,
Trừ ái dục tiêu tan.
Tối thượng hạnh phúc,
Phá ngã chấp hòan toàn.
Trang 73:
Kệ Khải Hòan
Trải bao nhiêu kiếp luân hồi,
Ta đi đi mãi tìm hòai không ra.
Ai là người thợ cất nhà,
Dựng nên kiếp sống, tạo ra cuộc đời.
Hỡi này người thợ kia ơi !
Ta vừa tìm gặp được ngươi đây là.
Từ nay ngươi khỏi cất nhà,
Những sườn cùng nóc ta đà phá tan.
Như Lai đã chứng Niết-bàn,
Tận trừ ái dục vào hàng Vô sanh.
Trang 78:
Dòng tham ái đen ngòm đêm tối,
Người đắm chìm không lối thoát ra,
Si mê bao phủ mây mờ,
Pháp môn thâm diệu bây giờ thấy đâu.
Trang 79:
Xin Thế Tôn ban truyền Chánh Pháp
Mắt chúng sanh bụi cát nhiễm nhơ
Trầm luân khổ hải đợi chờ,
Pháp môn tế độ kịp giờ cứu nguy.
Trang 80:
Phật dùng huệ nhãn xét xem,
Thấy đời như thể đám sen trong hồ,
Cọng chìm trong nước bùn nhơ,
Cọng vừa ló dạng nhấp nhô ngoi đầu.
Cọng lên khỏi nước từ lâu,
Phất phơ thanh thoát, đẹp màu thơm hương.
* * *
Mở rồi cánh cửa Vô sanh,
Để cho ai có duyên lành muốn vô.
Trang 94:
Chớ thái quá cũng đừng bất cập,
Lợi dưỡng và ép xác đều sai.
Cực đoan phải bỏ cả hai,
Theo đường trung đạo Như Lai thực hành.
Tứ Diệu Đế
Chơn lý đầu tiên là Khổ đế,
Dẫy đầy nỗi khổ cõi trần gian.
Sanh, già, đau, chết thêm phiền não,
Nước mắt nhơn sanh bốn biển tràn.
* * *
Chơn lý thứ hai là Tập đế,
Nguyên nhân ái dục đắm phù hoa.
Nguyên nhân ái dục mê đời sống,
Ái dục triền miên cõi ái hà.
* * *
Chơn lý thứ ba là Diệt đế,
Diệt trừ ái dục phá vô minh
Niết-bàn vắng lặng không phiền não,
Bặt nẻo luân hồi dứt tử sanh.
* * *
Chơn lý thứ tư là Đạo đế,
Con đường Bát Chánh tuyệt cao siêu.
Nhãn quan mở rộng tầm tri kiến,
Tứ quả lần hồi đạt mục tiêu.
Trang 124:
Ngọn Cờ Chánh Pháp
Ngọn cờ Chánh Pháp phất cao,
Bốn ngàn tám vạn trần lao qui hàng.
Tiến lên hội chúng áo vàng,
Ra đi khắp chốn mở mang đạo mầu.
Người đời trói buộc khổ đau,
Pháp môn giải thoát truyền trao độ đời.
Xuất gia cao thượng tuyệt vời,
Không còn luyến ái xa rời nhiễm ô.
Tạm thời nếp sống đơn sơ,
Cư trần bất nhiễm lòng lo độ đời.
Hỡi người mê đắm chơi vơi,
Bước lên thuyền Giác sống đời thiêng liêng.
Trang 147:
Phật Dạy La Hầu La
Trước khi hành động nghĩ suy
Hại mình, hại chúng bỏ đi đừng làm.
Việc nào lành tốt an vui,
Lợi mình, lợi chúng liệu toan thực hành.
* * *
Các pháp nhơn duyên sanh,
Cũng theo nhơn duyên diệt.
Nhơn duyên sanh diệt này,
Như Lai hằng tuyên thuyết.
Trang 148:
Nếp Sống Đạo Hạnh
Năm điều lạc thú cõi đời,
Phải nên từ bỏ kịp thời lánh xa.
Niềm tin cắt ái ly gia,
Dứt rồi phiền não thoát ra hồng trần.
Chọn bạn tri thức nương gần,
Tìm nơi thanh vắng ân cần luyện tâm.
Canh chừng dục vọng diệt phăng,
Giới nghi kiềm chế lục căn giữ gìn.
Vui trong nếp sống trì bình,
Vừa lòng phẩm thực đi xin mỗi ngày,
Bát y bốn vật cùng xài,
Không nên luyến ái dồi mài cao sang.
Nó là bụi cát trần gian,
Trả về cát bụi đừng mang nặng nề.
Xa rời hào nhoáng đẹp xuê,
Xa rời những chỗ si mê dục tình.
Chú tâm thiền định tịnh thanh,
Vững vàng phát triển hạnh lành quả cao.
Trang 151:
Lời Của Đại Đức La Hầu La
Đời ta diễm phúc hai lần,
Làm con Đức Phật hầu gần Pháp môn.
Tu hành chứng ngộ lý chơn,
Không còn trở lại thế gian luân hồi.
Quả A La Hán đắc rồi,
Xứng đáng nhận lãnh của người cúng dâng.
Khá thương sanh chúng cõi trần,
Dục tình bao phủ chơn tâm mê mờ.
Cá nằm trong rọ ngẩn ngơ,
Bao giờ thức tỉnh, bao giờ thoát ly?
Ta nay cắt dứt mê si,
Xây lưng thế cuộc, bỏ đi ngũ trần.
Tận trừ cội rễ tham sân,
Lửa lòng dập tắt lâng lâng nhẹ nhàng.
Trang 178:
Phật Dạy Ông Cấp Cô ĐộcGieo Trồng Phước Đức
Muốn tìm phước đức,
tập bố thí cúng dường.
Phước đức nhiều hơn,
nên dựng xây Tu viện.
Phước đức miên viễn,
phải trì giới quy y,
Phước đức huyền vi,
niệm từ bi thiền định.
Phước đức tuyệt đỉnh,
đắc trí huệ Niết-bàn.
(Kinh Trường A Hàm)
Trang 163:
Lời Của Đại Đức A Nan Đa
Hỡi này cái hủ da giả dối,
Trong chứa đầy cả khối trược nhơ,
Khổ sầu bịnh tật mưu cơ,
Bên ngoài sơn phết phỉnh phờ được ai ?
Trang 177:
Lần đầu tiên Trưởng giả Cấp Cô Độc lấy làm hoan hỷ yết kiến Đức Phật và cung kính hỏi thăm: Ngài có được yên vui không ? Đức Phật trả lời:
Lúc nào cũng được yên vui,
Đắc xong quả Thánh, diệt rồi lửa tâm.
Không còn phiền não lửa trần,
Cuộc đời sống mới hòan toàn tịnh thanh.
Trang 313:
Người cao quý do lòng đạo đức,
Không phải do giai cấp của tiền.
Trang 211:
Khi Hoàng thái hậu, Nội tổ của Vua Kosala băng hà, Đức Vua lấy làm sầu muộn đến bạch với Đức Phật rằng: Ông có thể đổi bất cứ vật gì của ông để tìm lại sự sống của người mà ông quí trọng và trìu mến như Mẹ, Đức Phật an ủi như sau:
Món đồ gốm có ngày bể nát,
Tánh bể kia theo sát món đồ.
Thân ta cái chết chực hờ,
Luôn luôn “cái tử” đợi chờ “cái sanh”.
Trang 221:
Gieo Giống Trường Sanh
Một thời kia Đức Phật ở xứ Ma Kiệt Đà trong một làng theo Bà La Môn Giáo. Lúc ấy lối năm trăm tay cày sắp sửa ra đồng làm việc cho một vị Bà La Môn. Đức Phật đắp y mang bát đến chỗ người đang phân phối vật thực và đứng sang một bên. Vị Bà La Môn ấy ban đầu vấn nạn Phật, sau rồi lại được Phật cảm hoá.
Bà La Môn:
Ra công cày cấy nhọc nhằn,
Mỗi ngày đúng bữa tôi ăn phải rồi.
Còn ông cũng phải như tôi,
Cấy cày có lúa gạo rồi sẽ ăn.
Phật nói:
Tôi nay nào khác chi ông,
Cấy cày tôi đã làm xong hết rồi.
Bà La Môn:
Nhưng tôi nào thấy ruộng cày,
Trâu cày, lúa giống, vậy Ngài để đâu ?
Đức Phật:
Đức tin hột giống nhiệm mầu,
Đường cày trí huệ ăn sâu tâm điền.
Nước mưa giới luật tưới lên,
Trâu bò tinh tấn bền chuyên vững vàng.
Thành công thực hiện Niết-bàn,
Gieo duyên Bất tử dự hàng Vô sanh.
Bà La Môn:
Khấu đầu đảnh lễ Thế Tôn,
Tôi xin dâng một bát cơm tín thành.
Ngài vừa gieo giống Trường sanh,
Loại cây Bất tử trái lành kết đơm.
Đức Phật:
Ngày xưa chư Phật ba đời,
Không dùng vật thực do lời giảng Kinh.
Đó là chánh mạng rành rành,
Đúng theo Giới luật dám xin khước từ.
Trang 231:
Người ta chế ngự loài voi,
Bằng cây, bằng móc, bằng roi, bằng xiềng.
Tay không khí giới thản nhiên,
Đức Phật chỉ lấy đức hiền thắng tâm.
Trang 235:
Kim ngôn ứng dụng khắp đời,
Phật đem phỉ lạc cho người thông minh.
Với người bậc trí trung bình,
Phật nâng kiến thức quang minh kịp kỳ.
Với người mê muội ngu si,
Phật trừ ám chướng thoát ly vọng tà.
Trang 239:
Bảy Pháp Bất Thối Chuyển
Ngày nào Tăng chúng hiệp đoàn,
Siêng năng hội họp luận bàn Pháp môn.
Thuận hòa đoàn kết luôn luôn,
Luật nghiêm giới cấm bảo tồn khít khao.
Kỉnh tôn Trưởng lão hạ cao,
Vâng lời quản chúng nâng cao giáo quyền.
Dứt trừ ái dục não phiền,
Thích nơi thanh vắng tham thiền luyện tâm.
Dung hòa phát triển Tòng lâm,
Bạn bè nương tựa xa gần sống chung.
Ngày nào Tăng chúng tròn xong,
Bảy điều bất thối thành công vẹn toàn.
(Bảy Pháp Bất Thối Chuyển và Bảy Điều Thạnh Pháp có trong Kinh Trường A Hàm quyển hai đoạn một. Bổn dịch của Thượng Tọa Thích Trí Đức).
Trang 240:
Bảy Điều Thạnh Pháp
Ngày nào dứt muốn ham thế sự,
Không biếng lười thích ngủ lo ăn,
Không luận bàn chuyện thế việc trần,
Không phe đảng dể duôi giới luật,
Không khoe khoang khi mình thiếu đức,
Không nhiễm ô vật chất phù hoa,
Không nương gần bè bạn xấu xa,
Bảy điều kiện thạnh hưng Chánh Pháp.
Trang 266:
Thôi A Nan đừng buồn, đừng khóc,
Sanh trong đời có hợp phải ly.
Xác thân tứ đại kéo trì,
Sanh già bịnh chết bỏ đi nhẹ nhàng.
Trang 274:
Những Kỳ Kết Tập Tam Tạng
Phật nhập Niết-bàn ba tháng,
Năm trăm vị La Hán,
Kết gom các Phật ngôn,
Sắp xếp thành ba Tạng.
Sau đó một trăm năm,
Lần thứ nhì kết tập.
Hai trăm băm sáu năm (236),
Lần thứ ba kết tập.
Lần thứ tư kết tập,
Cách Phật năm trăm năm,
Kinh được ghi trên lá,
Đầu tiên tại Tích Lan.
Trang 286:
Chỉ tự ta dữ lành phước tội,
Chỉ tự ta nghiệp đổi nhơn thay,
Tự ta trau sửa dồi mài,
Sạch nhơ không thể nhờ ai liệu giùm.
(Pháp Cú 145)
Trang 288:
Cảnh Giác
– Không nên tin điều gì,
chỉ vì nghe người ta đồn đãi.
– Không nên tin điều gì,
chỉ vì do tục xưa truyền lại.
– Không nên tin điều gì,
chỉ vì được Kinh sách chép ghi.
– Không nên tin điều gì,
chỉ vì bậc tu hành chỉ dạy.
– Ta chỉ tin điều gì,
do nhận thức thông thái.
Trang 291:
Người hay cầu nguyện vái van,
Là còn ích kỷ tham lam cho mình.
Đeo theo thần thánh cầu xin,
Sao bằng thiền định tự mình trau tâm.
Trang 292:
Nghe chỉ trích mà lòng giận oán,
Lửa xông mờ xét đoán khó minh,
Đã không thấy lỗi phần mình,
Còn gây thêm nỗi bất bình trái oan.
Trang 293:
Những ai ngửa mặt phun trời,
Tự nhiên nước miếng lại rơi mặt mình.
Trang 294:
Giới nghi như cánh loài chim,
Bước chân thần túc bay tìm cao siêu.
Trang 297:
Như tình mẹ ân cần bảo bọc,
Đứa con thơ duy nhứt của mình.
Lòng từ đối với chúng sanh,
Tình thâm như thể mẹ hiền yêu con.
(Kinh Từ Bi)
Trang 297:
Muôn loài nào khác chi ta,
Mến yêu đời sống lánh xa tai nàn.
Tình thương ta phải rải ban,
Chớ nên giết hại đừng làm khổ đau.
(Pháp Cú 129)
Trang 299:
Dầu có Phật hay không có Phật,
Lẽ đương nhiên định luật trường tồn.
Khổ não, vô ngã, vô thoàng,
Tiến hành lưu chuyển luôn luôn không ngừng.
Phật chứng ngộ chỉ đường chứng ngộ,
Xác định rành tuyên bố rõ ràng.
Hữu tình vạn vật trần gian,
Thảy đều vô ngã, vô thoàng, khổ đau.
Trang 299:
Điều khổ não là điều duy nhứt,
Phật dạy ta chấm dứt khổ đau,
Thực hành nếp sống thanh cao,
Là ta dứt khổ, dứt đau tự mình.
Trang 300:
Giáo pháp Phật một mùi giải thoát,
Nước đại dương một vị mặn mòi.
* * *
Tự ta nương tựa lấy ta,
Vững như hải đảo phong ba chẳng sờn.
Trang 302:
Sự nhận định trần gian khổ não,
Nào phải đâu Phật giáo bi quan,
Chỉ phương thuốc, vạch con đàng,
Niết-bàn diệt khổ, lạc quan miên trường.
Trang 303:
Ngày nọ có vị trời đến hầu Phật và hỏi:
Những người lui tới rừng già,
Sống đời đạo hạnh như là Thánh nhân.
Mỗi ngày ăn chỉ một lần,
Tại sao coi họ có phần thong dong?
Đức Phật giải đáp:
Chuyện qua họ chẳng để lòng,
Những điều chưa tới họ không mơ màng.
Hiện thời tâm trí rảnh rang,
Cho nên họ được nhẹ nhàng thong dong.
* * *
Pháp Phật chẳng có bí truyền,
Cũng như ánh sáng khắp miền chói chang.
(Kinh Tăng Nhất A Hàm)
Trang 312:
Sanh vào dòng sang,
Chưa hẳn thật sang.
Sanh vào dòng hèn,
Chưa hẳn thật hèn.
Sang hèn do nếp sống,
Xấu tốt cùng dữ hiền.
Trang 317:
Ruồi vương lưới nhện mạng cùng,
Người vương lưới dục vẫy vùng khó ra.
Con đường cắt ái ly gia,
Dẹp đi thế sự bỏ xa ngũ trần.
Thảnh thơi thanh tịnh vô ngần.
Trang 320:
Con từ đâu đến cùng cha mẹ ?
Rồi một mình lặng lẽ ra đi.
Không kêu gọi, khó kéo trì,
Đến sao đi vậy, lấy gì sầu than !
Trang 323:
Cũng thân này tạo gây nghiệp ác,
Cũng thân này tu các hạnh lành.
Cũng thân này mê vọng chúng sanh,
Cũng thân này giác chơn thành Phật.
KHỔ: Cũng thân này khổ đau chứa chất,
TẬP: Cũng thân này ái dục buộc ràng.
DIỆT: Cũng thân này tiến tu diệt khổ,
ĐẠO: Cũng thân này khai đạo Niết-bàn.
Cũng thân này cội nguồn sanh tử,
Cũng thân này đạo quả Niết-bàn.
Trang 325:
Mắt trần gian thấy lớp ngoài hiện trạng,
Mắt Thánh nhơn thấu thật tướng Chơn như.
Kiếp trần tiêu, trưởng, vinh, hư.
Sanh đây mất đó khổ sầu đòi phen.
* * *
Sông nào đắm bằng sông ái dục,
Ngục nào ghê bằng ngục giận sân.
Lửa nào nóng thể dục tham,
Lưới nào trói buộc cho bằng vô minh.
(Pháp Cú 251)
Trang 331:
Hai điều hạnh phúc tuyệt vời,
Một thời “dứt tríu” hai thời “dứt mê”.
Trang 334:
Dầu ai bình phẩm thế nào,
Dầu sai dầu đúng, dầu sao mặc dầu.
Giữ lòng trong sạch cần tu,
Tâm từ mở rộng suối từ chảy tuôn.
Niệm lành bao quát càn khôn,
Thương trùm vạn vật độ luôn muôn loài.
Trang 345:
Nghiệp Báo
Người nào trọn kiếp sát sinh,
Vay máu trả máu yểu hình mạng vong.
Người nào trọn kiếp trau lòng,
Giúp người cứu vật thọ chồng tuổi cao.
Người nào độc ác gươm đao,
Tấm thân oằn oại yếu đau dật dờ.
Người nào hiền đức nhu hòa,
Tấm thân mạnh khoẻ đẫy đà kiện khang.
Người nào chưởi mắng tục tằn,
Tấm thân xấu xí hận sân tạo thành.
Người nào nhẫn nhục ép mình,
Tấm thân xinh đẹp nhân lành tạo nên.
Người nào tật đố bon chen,
Nói làm không được lạ quen tán thành.
Người không tật đố tham ganh,
Nói làm được chúng hoan nghinh thuận tùng.
Người không bố thí vật dùng,
Tánh tình keo kiết nghèo cùng kiếp sau.
Người hay bố thí giúp nhau,
Lòng giàu nhân đức của giàu đụn kho.
Người nào ngã mạn hồ đồ,
Kiếp sau nghiệp báo làm cho thấp hèn.
Người nào phục thiện tự khiêm,
Kiếp sau sang trọng quí quyền cao ngôi.
Người không nương học trau dồi,
Cuộc đời ngu dốt thiệt thòi kiếp sau.
Người tìm nương học dồi trau,
Thông minh trí tuệ thanh cao đời đời.
Trang 499:
Đố ai chặt hết cây rừng,
Để ta ví dụ gom từng cọng cây.
Đây là mẹ của tôi đây,
Đây mẹ của mẹ, kiếp này của tôi.
Cây đã hết chưa rồi kiếp sống,
Cây vô cùng kiếp cũng vô biên.
Luân hồi vô tận triền miên,
Khó tìm được kẻ không quen thuộc mình.
Trang 500:
Cuộc Hành Trình Diệu Viễn
Xương một người trong vô lượng kiếp,
Nếu chất chồng cao biết bao to.
Cao như ngọn núi khổng lồ,
Cao như thạch trụ thập thò mây xanh.
Khổ tử biệt thâm tình phân rẽ,
Nước mắt rơi bốn bể không bằng.
Hành trình diệu vợi xa xăm,
Khổ đau, đày đọa, âm thầm cô đơn.
Dừng mỗi trạm thay thân đổi kiếp,
Tội mình làm mang nghiệp lợn trâu.
Nhổ lông, thọc huyết, chặt đầu,
Máu con đổ giọt bể sâu dẫy tràn.
Tội trộm cướp, dâm loàn nghiệt ngã,
Tội sát sanh, dối trá gạt lường.
Khi thời hại chúng tai ương,
Thời khi chúng hại máu xương trả đền.
Đã lâu rồi non phiền biển khổ,
Đã lâu rồi máu đổ lệ tuôn.
Dẫy đầy nghĩa địa xác con,
Con đà chán kiếp sanh tồn tử vong.
Lâu lắm rồi con trông đợi mãi,
Đủ lắm rồi con phải quay lưng.
Tìm con đường khác dời chân,
Lánh xa tất cả hồng trần hỡi ơi!
Trang 577:
Lửa Hồng Trần
Lửa hồng trần rần rần cháy dậy,
Chất liệu nào bén nhạy thế kia ?
Đó là ngọn lửa mê si,
Sắc trần mắt thấy tức thì nấu nung.
Sự ham muốn nằm trong ngọn lửa,
Sắc trần như củi chứa bổi mồi.
Tham, sân, si, dục dấy rồi,
Sanh, già, đau, chết, luân hồi khổ thân.
* * *
Lửa hồng trần rần rần cháy dậy,
Chất liệu nào bén nhạy thế kia ?
Đó là ngọn lửa mê si,
Thinh trần tai lắng tức thì nấu nung.
Sự ham muốn nằm trong ngọn lửa,
Thinh trần như củi chứa bổi mồi.
Tham, sân, si, dục dấy rồi,
Sanh, già, đau, chết, luân hồi khổ thân.
* * *
Lửa hồng trần rần rần cháy dậy,
Chất liệu nào bén nhạy thế kia ?
Đó là ngọn lửa mê si,
Hương trần mũi ngửi tức thì nấu nung
Sự ham muốn nằm trong ngọn lửa,
Hương trần như củi chứa bổi mồi.
Tham, sân, si, dục dấy rồi,
Sanh, già, đau, chết, luân hồi khổ thân.
* * *
Lửa hồng trần rần rần cháy dậy,
Chất liệu nào bén nhạy thế kia ?
Đó là ngọn lửa mê si,
Vị trần miệng nếm tức thì nấu nung.
Sự ham muốn nằm trong ngọn lửa,
Vị trần như củi chứa bổi mồi.
Tham, sân, si, dục dấy rồi,
Sanh, già, đau, chết, luân hồi khổ thân.
* * *
Lửa hồng trần rần rần cháy dậy,
Chất liệu nào bén nhạy thế kia ?
Đó là ngọn lửa mê si,
Xúc trần thân chạm tức thì nấu nung.
Sự ham muốn nằm trong ngọn lửa,
Xúc trần như củi chứa bổi mồi.
Tham, sân, si, dục dấy rồi,
Sanh, già, đau, chết, luân hồi khổ thân.
* * *
Lửa hồng trần rần rần cháy dậy,
Chất liệu nào bén nhạy thế kia ?
Đó là ngọn lửa mê si,
Pháp trần ý tưởng tức thì nấu nung.
Sự ham muốn nằm trong ngọn lửa,
Pháp trần như củi chứa bổi mồi.
Tham, sân, si, dục dấy rồi,
Sanh, già, đau, chết, luân hồi khổ thân.
* * *
Bậc trí giả chuyên cần quán tưởng,
Giác ngộ rồi nhàm chán lục căn,
Lục thức, lục nhập, lục trần,
Dầu không vui khổ hay phần khổ vui.
Do nhàm chán xa rời luyến ái,
Lòng dửng dưng trạng thái thoát trần.
Sống đời phạm hạnh Thánh nhân,
Thoát ra khỏi chốn hồng trần lửa thiêu.
Trang 574:
Lời Của Đức Xá Lợi Phất
Chết hay sống ta không quản ngại,
Giữ thân này hay phải bỏ đi,
Bỏ đi ta bỏ tức thì,
Với tâm sáng suốt có gì sợ lo.
Cũng không phải hững hờ sự chết,
Cũng không lòng ham thích kiếp sanh,
Ta đang chờ đợi giờ lành,
Như người làm mướn hòan thành công phu.
Trang 590:
Mang thân xác uế thai phàm,
Vạch đường giải thoát thế gian nương nhờ.
Trang 592:
Bị nhục mạ không gây nhục mạ,
Bị oán thù không trả oán thù.
Ví như đất mẹ lặng lờ,
Âm thầm chịu đựng sạch nhơ sá gì.
Trang 607:
Người dư dả vẫn còn ham muốn,
Tôi ít oi cảm thấy vừa lòng,
Họ nghèo trong tiền rừng bạc biển,
Tôi giàu trong áo vá túi không.
Trang 632:
Lâm nguy chớ vội cầu xin,
Hãy cầu nghị lực tự mình vượt qua.
Khổ đau chớ khá kêu ca,
Chỉ cần trí dõng điều hòa an nhiên.
Đừng lo sợ, chớ ưu phiền,
Kiên trì phấn đấu mình nên độ mình.
Trang 673:
Khi thăng trầm, lúc vui buồn,
Giữ tâm như đất luôn luôn không phiền.
Dầu dơ sạch, dầu chê khen,
Ví tâm như đất thản nhiên mặc tình.
Trang 674:
Đãi người, người chẳng chịu ăn,
Tự nhiên của đãi về phần mình xơi.
Mắng người, người chẳng chấp lời,
Tự nhiên lời mắng lại quay về mình.
Trang 348:
Thuyết nghiệp báo không như tiền định,
Không buộc ràng số mạng thần linh.
Việc làm phản ứng dữ lành,
Thay nhơn đổi nghiệp tự mình chủ trương.
Kệ Chơn Lý
Lời nói đầu
Đầu năm 1982, tại Tịnh Xá Ngọc Phương, số 498/1 Lê Quang Định, Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo hội có mở khóa Giáo lý Trung cấp cho các Ni Cô. Chương trình khóa này có nhiều kinh điển, thêm Việt văn, cổ ngữ, sinh ngữ cũng khá nhiều giờ, Chơn lý biệt truyền lại cần phải học. Do đó, tôi gắng tóm lược các bài giảng Chơn lý và diễn ra thành thơ. Mỗi bài giảng dài thành ít câu thơ ngắn, đa số là loại thất ngôn tứ cú, kỹ thuật hẳn hòi, để giúp các cô học thơ luôn thể.
Những bài này còn dùng làm tài liệu cho các cô thuyết giảng, hoặc dạy Phật tử học trong các Tịnh Xá theo lệ cúng Hội mỗi tháng hai kỳ.
Chơn lý của Tôn Sư để lại, tất cả 69 tập, trong đó hết 9 tập là giới bổn hoặc kệ kinh. Còn lại 60 tập là toàn bài giảng, nên chúng ta cũng được 60 bài thơ gọi là “KỆ CHƠN LÝ”.
Vì sợ tam sao thất bổn trong lúc chưa in, nên tôi cho đánh máy và đánh số mỗi tập rồi ký tên để các cô khắp nơi dựa đó chép, dò cẩn thận.
Thành phố Hồ Chí Minh,
Phật Đản 2526 (1982)
Ni Sư Trưởng Giáo đoàn Ni Giới Khất Sĩ
Ni Sư HUỲNH LIÊN
============================
Kệ Chơn Lý
Số 1 – VÕ TRỤ QUAN
Thăm thẳm bao la khoảng đất trời,
Người hơn muôn vật giữa trần ai.
Nghiệp duyên thay đổi phàm nên Thánh,
Chánh pháp truyền ban đạo cứu đời.
Số 2 – NGŨ UẨN
Bản ngã gốc vô minh,
Do năm uẩn cấu thành.
Quán sát trừ năm uẩn,
Chứng quả vị Vô sanh.
Số 3 – LỤC CĂN
Mắt, tai, mũi, lưỡi, ý, thân,
Sáu căn tiếp xúc sáu trần nhiễm mê.
Giống như địch thủ gần kề,
Phải nên nhiếp phục hộ trì sáu căn.
Biết rành tập khởi căn trần,
Biết rành đoạn diệt ân cần xả ly.
Nội tâm an tịnh kịp thì,
Cuộc đời chấm dứt thị phi não phiền.
Số 4 – THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN
Nghiệp ái chìm sâu cõi ái hà,
Luân hồi sanh tử kiếp trần sa.
Mười hai duyên khởi tu trừ diệt,
Khoảnh khắc bờ kia sẽ vượt qua.
Số 5 – BÁT CHÁNH ĐẠO
Tám đường chánh đạo độ trần gian,
Một nguyện thành tâm thấu Niết-bàn.
Sáng suốt hành tàng thông trí huệ,
Xa rời vọng tưởng đắc tâm an.
Số 6 – CÓ VÀ KHÔNG
Bánh xe giáo lý chuyển vần,
Chơn không diệu hữu, hai phần tương quan.
Mực trung tương đối nhịp nhàng,
Thung dung hành giả lên đàng tiến tu.
Số 7 – SANH TỬ
Vốn liếng hành trang đến cõi trần,
Người hơn muôn vật tấm lòng nhân.
Tâm lành hướng thượng càng cao phẩm,
Nghiệp ác sa đà mới lụy thân.
Số 8 – NAM NỮ
Muốn không xác uế, thoát thai phàm,
Lục dục tiêu trừ dứt muốn ham.
Tội phước chẳng phân giàu với khó,
Giác mê nào luận nữ hay nam.
Số 9 – CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC
Tiền thân Bồ-tát kiếp Hằng sa,
Giác ngộ viên thông chứng Phật Đà.
Thiền quán kiên trì tăng trí huệ,
Du phương giáo hóa độ Ta Bà.
Số 10 – CÔNG LÝ Võ TRỤ
Con đường nhơn quả lẽ đương nhiên,
Báo ứng hành vi hiện nhãn tiền.
Lòng tịnh cho đời muôn ánh tuệ,
Gương vàng in bóng một đài sen.
Số 11 – LUẬT KHẤT SĨ
Tinh đàng phước huệ xứ an lành,
Giới trải nền già đất tịnh thanh.
Thiền quán kiên trì hoa Bất thối,
Căn trần vắng lặng cõi Vô sanh.
Số 12 – KHẤT SĨ
Một bát muôn nhà độ chúng sanh,
Cô thân ngàn dặm bước du hành.
Đường mê sanh tử lầm hang tối,
Ánh đuốc quang minh hướng đạo lành.
Số 13 – Y BÁT CHƠN TRUYỀN
Lá y quả bát đạo chơn truyền,
Phương tiện du hành hạnh hóa duyên.
Phát nguyện cúng dường gieo phước đức,
An tâm tri túc dễ tham thiền.
Số 16 – ĂN CHAY
Thanh trai tịnh hạnh phước duyên lành,
Nuôi dưỡng lòng từ đức hiếu sanh.
Tha giết ngàn trùng ban đạo nghĩa,
Dạy khuyên vô lượng rải ân tình.
Số 17 – THIỀN ĐỊNH
Độc cư biệt thất cảnh thanh u,
Quán “sắc” rồi “danh” pháp đối đầu.
Bổn ngã rõ ràng “danh” lẫn “sắc”,
Vô thoàng tất cả có chi đâu ?
Số 18, 19 – THI
Số 20 – CƯ SĨ
Tu phước ngày đêm cội phước trồng,
Phước trồng thắm thoát huệ sanh bông.
Quên thân vì đạo lòng thơ thới,
Học pháp, hành thiền, trí sáng thông.
Số 21 – TÂM
Cũng tâm là Phật cũng tâm ma,
Tâm chánh chơn hay hướng vọng tà.
Giải thoát luân hồi non Pháp bảo,
Trôi lăn sanh tử biển phù hoa.
Số 22 – TÁNH THỦY
Sông Hằng chớ tưởng rửa oan khiên,
Nước pháp thành tâm rửa não phiền.
Đức tốt ngày giờ nào cũng tốt,
Tâm yên mọi cảnh thảy vui yên.
Số 23 – HỌC CHƠN LÝ
Ở đời muôn việc muốn thành công,
Đạo đức trau tria dọn tấm lòng.
Vải nhuộm ban sơ màu thấm thía,
Pháp hành rốt ráo hạnh dung thông.
Số 24 – TRÊN MẶT NƯỚC
Phát nguyện ly trần nở đóa sen,
Ngó chen tâm phát vượt bùn phèn.
Hương thơm trí huệ mùi siêu thoát,
Hột kết Chơn như tánh diệu huyền.
Số 25 – CHÁNH PHÁP
Khất thực không nài vật uống ăn,
Mặc y phấn tảo hạnh thanh bần.
Tàng cây, nhà vắng, tu thiền quán,
Rễ lá sơ sài, dụng thuốc thang.
Số 26 – CHÁNH KIẾN
Chánh kiến cao siêu chí thoát trần,
Nhổ đi tà kiến gốc tham, sân.
Vô minh dẫn lối ngầm si, mạn,
Giác ngộ đưa đường tỏ lý chân.
(Phẩm Chánh Tri Kiến, Trung Bộ Kinh I tr. 46)
Số 27 – TAM GIÁO
Giam hãm trần gian kiếp khổ sầu,
Y vàng chắp cánh nhẹ vân du.
Giác minh vô ngã đường trong sáng,
Quán sát vô biên lý diệu mầu.
Số 28 – TÔN GIÁO
Như Lai sứ giả giới kiên trì,
Tứ pháp hành trang giữ bát y.
Lưu chuyển trau dồi châu giải thoát,
Tuệ thiền chiếu sáng ngọc ma ni.
Số 29 – THẦN MẬT
Đại nguyện hoằng dương pháp diệu huyền,
Khẩu, thân, tâm ý mạnh vô biên.
Sáu căn trong sạch sanh thần mật,
Ba nghiệp trau dồi đạt pháp thiên.
Số 30 – GIÁC NGỘ
Địa ngục Thiên đường cũng tại tâm,
Nhơn nào quả nấy há sai lầm.
Từ bi ban rải tiêu oan trái,
Hỷ xả hòa đồng dứt hận sân.
Số 31 – KHUYẾN TU
Vật chất trần gian tạo ác tâm,
Bớt đi vật chất dưỡng tinh thần.
Si mê chuyên chở ghe tàn ác,
Trí tuệ trau dồi ngọc báu trân.
Số 32 – ĐI TU
Thiên sứ truyền tin: “Tóc bạc rồi !”
Giật mình thức tỉnh trễ ôi thôi !
Say mê tạo nghiệp sai đường chánh,
Giác ngộ hồi tâm lỡ cuộc đời.
Số 33 – ĂN VÀ SỐNG
Của cải người như huyết mạch người,
Không cho chớ lấy phạm lầm sai.
Thí thân quả vị nên Bồ-tát,
Thí vật kho tàng để hậu lai.
Số 34 – CHƯ PHẬT
Nghiệp lành như thể chuỗi hòan liên,
Mỗi kiếp xâu vào mỗi một viên.
Chuyển kiếp mượn hình cha mẹ khác,
Kiếp bao nhiêu chuyển nghiệp bao chuyền.
Số 35 – HỘT GIỐNG
Cánh chim hồ hải bốn phương trời,
Y bát du hành độ khắp nơi.
Quả đạo thành rồi lên cõi Phật,
Cửa tâm đóng lại dứt duyên đời.
Số 36 – SỢ TỘI LỖI
Vô biên phước tội kiếp lầm mê,
Trả hết, đền xong, tỏ lối về.
Đạo cả, đức dày, sung cội giác,
Công viên, quả mãn, đến bờ kia.
Số 37 – TRƯỜNG ĐẠO LÝ
Lạc đường hang tối bóng âm u,
Kinh sợ hoang mang nỗi thảm sầu.
Tứ đế duyên giao đường Chánh đạo,
Tam quy giác ngộ đấng Chơn sư.
Số 38 – NGUỒN ĐẠO LÝ
Nghiệp tồn, duyên kết, kiếp sanh thân,
Tội mới vay thêm đậm nợ nần.
Chánh pháp dựng xây toà Lạc cảnh,
Giác tâm thanh thoát cõi siêu trần.
Số 39 – CON SƯ TỬ
Rừng nào cọp nấy dậy oai phuông,
Thất thế sa cơ khổ chán choàng.
Đến lúc ăn năn nhìn tội lỗi,
Sao bằng đạo đức rải tình thương.
Số 40 – ĐI HỌC
Bơ vơ lạc lõng giữa rừng xanh,
Thú dữ, ma thiêng, quỷ hiện hình.
May gặp người hiền đưa lối thoát,
Mới hay nhà cũ gặp cha lành.
Số 41 – ĐỜI ĐẠO ĐỨC
Xã hội tình thương dắt dẫn nhau,
Chẳng phân khôn dại, rẽ nghèo giàu.
Chia cay sớt ngọt chung niềm đạo,
Quả tốt nhơn lành hưởng kiếp sau.
Số 42 – ĐẠI THỪA GIÁO
Tùy thuận cơ duyên Phật độ đời,
Cội nguồn Chánh Pháp chớ lầm sai.
“Chớ tin kinh sách qua truyền thuyết,
Chỉ nhận điều gì thuận lý thôi”.
Số 43 – XỨ THIÊN ĐƯỜNG
Tâm bình pháp giới tự nhiên bình,
Nghiệp tịnh thanh liền cảnh tịnh thanh.
Chim trổi Tứ đề ca giải thoát,
Gió đờn Bát chánh nhạc Vô sanh.
Số 44 – VỊ HUNG THẦN
Nghiệp ác mình mang xấu xí thôi,
Tiến lên đường thiện lịch thanh người.
Tiến tu trí tuệ càng thông thái,
Tiến đến Chơn như mới tuyệt vời.
Số 45 – PHẬT TÁNH
“Thái tử xin ăn giữa đế đô,
Làm cho xấu hổ cả dòng vua”.
“Thưa ngài, dòng Phật từ bao kiếp,
Tăng sĩ trì bình giữ hạnh xưa”.
Số 46 – HỌC ĐỂ TU
Cửa pháp cài then thử thách người,
Kiên trì tinh tấn chí không lui.
Thức tâm vô ngã thần thông hiện,
Kiến tánh Chơn như giác ngộ rồi.
Số 47 – ĐẠO PHẬT
Trì bình khất thực hạnh thanh bần,
Lều vắng tàng cây tạm trú chân.
Giải thoát cảnh đời xa vật chất,
Giản đơn nếp sống nhẹ tinh thần.
Số 48 – TU VÀ NGHIỆP
Muốn đi xứ khác ở lâu ngày,
Nợ cũ đòi liền kéo mạnh tay.
Hành động lâu ngày lành hoặc ác,
Nghiệp duyên nhiều kiếp trả rồi vay.
Số 49 – PHÁP TẠNG
Ngôi vua dầu có tột sang giàu,
Đâu sánh tu hành đắc quả cao.
Oai đức từ bi trùm pháp giới,
Hào quang giác ngộ chiếu trăng sao.
Số 50 – VÔ LƯỢNG CAM LỘ
Cảnh Phật trang nghiêm mặt đất vàng,
Bảy từng cây báu lớp lan can.
Hoa rơi, hương tỏa, cơm thiền duyệt,
Gió thổi, chim ca, nhạc tịnh đàng.
Số 51 – QUÁN ÂM
Tay rưới cành dương nhúng tịnh bình,
Pháp mầu, nước Thánh độ sanh linh.
Chắp tay nguyện khấn tiêu tai nạn,
Cất tiếng Nam-mô thoát ngục hình.
Số 52 – ĐẠI MỤC KIỀN LIÊN
Bát cơm dâng Mẹ hóa than hồng,
Lụy đổ lòng đau nguyện cứu vong.
Pháp thí tiêu khiên mừng vạn hạnh,
Vu lan đại xá phước muôn trùng.
Số 53 – ĐỊA TẠNG
Gậy tích cầm tay dộng ngục hình,
Đại hùng, đại lực cứu sanh linh.
Tràng phan Chánh giác trừ ma quỉ,
Bảo cái Từ bi dứt khảo hành.
Số 54 – PHÁP HOA
Nhơn duyên đại sự Phật ra đời,
Tri kiến tu hành muốn thị khai.
Tri kiến tu hành mong ngộ nhập,
Chúng sanh nhờ Phật đạt cao vời.
Số 55 – GIỚI PHẬT TỬ
Giới giữ cho thân sạch lỗi lầm,
Cho tâm như ngọc luyện dồi tâm.
Cho hoa Trí huệ tươi ngàn kiếp,
Cho quả Từ bi đẹp bội phần.
Số 56 – THỜ PHƯỢNG
“Sống gởi thác về” chỗ dựa nương,
Chùa xưa tháp cũ nắm tro tàn.
Ông cha kiếp trước gầy công đức,
Con cháu đời sau giữ đạo tràng.
Số 57 – PHÁP CHÁNH GIÁC
Niệm thân, biết rõ sắc vô thoàng,
Niệm thọ, buồn vui biết rõ luôn.
Niệm pháp, biết rành sanh diệt pháp,
Niệm tâm, đừng để vọng luông tuồng.
Số 58 – SỔ TỨC QUÁN
Thở vô dài biết thở vô dài,
Khi thở ra dài cũng biết ngay.
Hơi thở ra vô dài hoặc ngắn,
Biết liền quán sát, giác tâm khai.
Số 59 – SÁM HỐI
Tội khởi từ tâm sám tại tâm,
Tâm bằng diệt dứt tội tiêu trầm.
Tội tiêu tâm diệt hai đàng dứt,
Sám hối như vầy mới thật chân.
Số 60 – CHƠN NHƯ
Hữu vi tu học vẹn chuyên cần,
Vô tướng cao vời tỏ lý chân.
Trung đạo dung hòa thông trí tuệ,
Chơn như tịnh lặng dứt suy tầm.
Số 61 – HÒA BÌNH
Lìa mê, dứt ác tạo duyên lành,
Giác ngộ tu hành độ chúng sanh.
Oan trái xa rời tâm mát mẻ,
Từ bi ban rải cõi an bình.
Số 62 – LỄ GIÁO
Kính tôn đạo đức đắp tường cao,
Vực thẳm kề bên bọc kín rào.
Theo chánh, lánh tà xây móng vững,
Chùa vàng, tháp ngọc để đời sau.
Số 63 – ĐẠO PHẬT KHẤT SĨ
Thái tử nhàn du bốn cửa thành,
Già, đau, chết, khổ, kiếp mong manh.
Sa-mônmột vị thung dung bước,
“Chí quyết lên đường độ chúng sanh !”
Số 64 – KHỔ VÀ VUI
Có khổ nào hơn khổ tử sanh,
Giọt sương, bọt biển, kiếp tơ mành.
Phước duyên giác ngộ đường tu niệm,
Đạo quả trau dồi ngọc tịnh thanh.
Còn lại 5 bài là:
· Bài học Sa-di
· Pháp học Cư sĩ
· Pháp học Sa-di I
· Pháp học Sa-di II
· Pháp học Sa-di III
SỬ PHẬT THÍCH CA
(Từ Giáng sanh đến Thành đạo)
Trước dương lịch sáu trăm năm lẻ,
Thành Ca Tỳ La Vệ mừng vui.
Thích Ca Hòang tử ra đời,
Cha Ngài Tịnh Phạn, mẹ Ngài Ma Da.
Ngài là Sĩ Đạt Ta tên gọi,
Họ Cồ Đàm dòng dõi Đế vương.
Bảy ngày mẹ tách suối vàng,
Dưỡng nuôi Hòang tử có nàng Thứ phi.
Thuở ấy có một vì đạo sĩ,
Nghe tin đồn hoan hỷ đến thăm.
Đức Vua Tịnh Phạn hân hoan,
Cho bồng Hòang tử sơn nhân ngắm nhìn.
Đang ngồi ghế bỗng nhiên đứng dậy,
Xá Hòang nhi, đạo sĩ chắp tay.
Tiên tri lời đoán đời Ngài:
“Vĩ nhơn cao quý tót vời trần gian”.
Bỗng đạo sĩ cười khan rồi khóc,
Rằng ông gần thất lộc sanh thiên.
Không cùng Hòang tử có duyên,
Sau thành Phật quả ban truyền Pháp môn.
Mời các vị Bàng môn tài giỏi,
Vua muốn nghe lời nói tiên tri.
Người nào cũng đoán như y,
Rằng Hòang tử sẽ tu trì đạo cao.
Giờ đuổi khắc càng mau càng thúc,
Tuổi theo người mỗi lúc mỗi tăng.
Trau dồi nghiệp võ nghề văn,
Thông minh xuất chúng tài năng phi thoàng.
Mười sáu tuổi lo đường gia thất,
Vua kén người quốc sắc thiên hương.
Da Du Đà La công nương,
Đông cung đoạt giải, võ trường nức danh.
Lời tướng số đinh ninh nhớ rõ,
Điện tam thời đồ sộ dựng lên.
Phi tần cung nữ diễm tiên,
Làm vui dạ trẻ, mới yên lòng già.
Vàng ngọc chuốt xa hoa lộng lẫy,
Phấn trầm tô thanh quí nồng nàn.
Tuyển dâng điệu múa cung đàn,
Lụa là tuyệt phẩm, trân cam tuyệt trần.
Nhưng Hòang tử trầm ngâm nghĩ ngợi,
Thú đam mê nguồn cội não phiền.
Cuộc vui nào có lâu bền,
Cung vàng hoan lạc, dân đen khổ sầu.
Ngày thấm thoát bóng câu cửa sổ,
Đời mỏng manh ngọn cỏ sương mai.
Phàm gian giam hãm kiếp người,
Khát khao vùng vẫy bầu trời thênh thang.
Một ngày đẹp kiệu vàng thong thả,
Dạo cửa Đông già cả gặp liền.
Cửa Nam gặp bịnh la rên,
Cửa Tây gặp chết ưu phiền xót xa.
Dạo cửa Bắc gặp Sa-mônnọ,
Thân bát y rạng rỡ thong dong.
Tự nhiên khấp khởi mừng lòng,
Con đường giải thoát đang mong gặp rồi.
Lòng chí quyết xa rời thế tục,
Vua dụng công câu thúc điện đền.
Vừa buồn lại được nghe tin,
Công nương sanh hạ vẹn tuyền một trai.
Than rằng: “Lại sợi dây buộc trói”,
La Hầu La, Vua mới đặt tên.
Cung xinh, con quí, vợ hiền,
Cũng không ngăn được chí nguyền thoát ly.
Truyền Xa Nặc đêm khuya thắng ngựa,
Giã vợ con ra cửa hòang thành.
Tầm mối đạo, dứt mối tình,
Mai sau quả đắc công thành gặp nhau.
Đường khấp khểnh vó câu giục giã,
Cảnh im lìm bóng thỏ chênh vênh.
Ai hay một cuộc hành trình,
Dắt dìu nhơn loại mấy nghìn năm sau.
Cổi áo mão chuyển giao Xa Nặc,
Trình Phụ vương Kiền Trắc cho về.
Cạo râu cắt tóc nguyện thề,
Cà sa thân đắp lần về rừng sâu.
Tầm đạo sĩ học tu mấy lượt,
Chưa đạt thông chưa được toại nguyền.
Một mình khổ hạnh tham thiền,
Năm thầy hiệp bạn đồng nguyền khổ tu.
Hăm chín tuổi cơ đồ xa lánh,
Sáu năm trời khổ hạnh tuyết sương.
Xác thân mòn mỏi khác thoàng,
Có nàng tín nữ cúng dường thức ăn.
Ngài thọ dụng bội phần khoẻ khoắn,
Thân mỏi mòn khó đặng trí minh.
Nghĩ rồi quyết định thi hành,
Mỗi ngày thọ thực trung bình đơn sơ.
Năm đạo sĩ chẳng vừa ý kiến,
Bỏ ra đi Lộc Uyển một bề.
Ngài lần đến cội Bồ-đề,
“Nếu không thành đạo chẳng hề dậy đi”.
Lời phát nguyện kiên trì yên tịnh,
Canh một ngồi nhập định dễ dàng.
Túc mạng minh chứng rõ ràng,
Nhớ ra quá khứ trăm ngàn kiếp sanh.
Canh hai, Thiên nhãn minh lại chứng,
Quán sát rành hiện tượng diệt sanh.
Nhơn nào quả nấy dữ lành,
Nguyên do dắt dẫn chúng sanh luân hồi.
Lậu tận minh đến hồi chứng đắc,
Chấm dứt xong các pháp trầm luân.
Không còn trở lại cảnh trần,
Canh ba chói lọi một vầng hào quang.
Quả Chánh giác hòan toàn chứng ngộ,
Thắng ma vương, ma nữ vẻ vang.
Bảy tuần chứng nghiệm Niết-bàn,
Đọc bài hỷ lạc kệ vang cội Bồ.
KINH Ma KiẾn ĐỀ
Một thuở nọ Thế Tôn du hoá,
Đến địa phương Kiều Mã Sát Đàm.
Ở nhà một vị “Bàng môn”,
Sáng đi khất thực dùng cơm vào rừng.
Ma Kiến Đề bỗng dưng hôm nọ,
Trong nhà kia thấy có bồ đoàn.
Kiến Đề tọc mạch hỏi han:
“Chủ nhà dọn sẵn bồ đoàn cho ai ?”
Chủ nhà đáp: “Có Ngài Thích Tử,
Gô Ta Ma nay ngự ở đây.
Chánh đẳng giác, trí đã đầy,
Trời, người Điều ngự là Ngài Thích Ca”.
“Ôi ! Nguy hại ! Thật là nguy hại !
Gô Ta Ma phá hoại sống còn.
Theo trong Thánh Điển Bổn Tôn,
Phá hư sự sống là môn Thích Già”.
Thiên nhĩ thông nghe xa vụ ác,
Từ độc cư Đức Phật giáng qua.
Ngự trên thảm cỏ trước nhà,
Phật ngồi bên cạnh chủ gia cận kề.
Phật bảo: “Ma Kiến Đề có phải,
Thấy ta ngăn sắc ái nhãn căn.
Hộ phòng con mắt kỹ cang,
Phá hư sự sống bảo rằng Thế Tôn ?”
“Bạch Đức Ngài, Bổn Tôn Thánh Điển,
Có truyền lưu câu chuyện chẳng sai.
Phá hoại sự sống chính Ngài”.
Phật rằng: “Tiếng nói lỗ tai thích vừa,
Mũi thích hương, lưỡi ưa thích vị,
Xúc pháp cùng thân ý vân vân.
Lục căn tiếp xúc lục trần,
Thích ưa lưu luyến mê ham đắm chìm.
Ví có kẻ suy tìm thấu triệt,
Tập khởi và đoạn diệt thoát ly.
Lục trần khát ái trừ đi,
Nội tâm an tịnh kịp thì hiển nhiên.
Lại có kẻ sanh Thiên hưởng lạc,
Dục chư Thiên hơn các dục trần.
Vị này bỗng chốc khởi tâm,
Trở lui dục lạc cõi trần kiếp xưa”.
Ma Kiến Đề liền thưa: “Tôn giả,
Dục chư Thiên hơn cả thế nhân.
Ai mong trở lại cảnh trần,
Ai mong trở gót lui chân làm gì ?”
Phật bảo: “Ma Kiến Đề tỏ rõ:
Điện tam thời Ta ở thuở xưa,
Dẫy đầy dục lạc cung Vua,
Nhưng Ta thấu triệt diệt trừ thoát ly.
Tâm an tịnh tràn đầy hỷ lạc,
Ly dục và ly ác pháp luôn.
Chư Thiên lạc thú hỷ hoan,
Không còn ao ước dục tham thế tình.
Như người cùi thân hình lở lói,
Thúi hôi nhiều nhức nhối rên la.
Dùng tay khoét lỗ trên da,
Hố than hừng hực hơ qua khắp người.
Cũng như vậy cảnh đời mê đắm,
Lục căn kia va chạm lục trần.
Lửa tham nóng bức vô ngần,
Vết thương ngứa ngáy bịnh căn hành hà.
Cơn ngứa nhức xuýt xoa cào gãi,
Lúc đốt hơ trạng thái dịu dàng.
Tưởng lầm hạnh phúc trần gian,
Nào hay dục vọng tương tàn phá thôi.
Bậc Giác ngộ xa rời ái dục,
Sống thanh bần thu thúc lục căn.
Đoạn trừ ái dục lục trần,
Nội tâm thanh tịnh, tinh thần an vui”.
Rồi Đức Phật ban lời hướng cảm:
“Vô bịnh là tối thắng bình an,
Niết-bàn tối thắng lạc hoan,
Bát chánh độc đạo vững an miên trường”.
Nghe Phật dạy tỏ tường chơn giả,
Ma Kiến Đề vội vã bạch thưa:
“Được nghe từ các Bổn Sư,
Trước kia có nói cũng như lời này”.
Phật bảo: “Ma Kiến Đề giả tỉ,
Người vừa sanh mắt bị mù loà.
Vật gì cũng chẳng thấy ra,
Bỗng nghe vải đẹp lân la tìm cầu.
Người khác lại mưu sâu tráo chác,
Đưa tấm y dầu đất lấm lem.
Vừa mừng, vừa đắp, vừa khen,
Đẹp thay vải trắng vẹn tuyền trắng tinh.
Người mù có lòng tin kẻ sáng,
Chớ biết đâu vải trắng, vải dơ.
Cũng như tu sĩ tình cờ,
Niết-bàn vô bịnh bấy giờ nói theo.
Câu chuyện ấy truyền lưu dân chúng,
Như thân này độc chướng nọc sang.
Nói câu vô bịnh Niết-bàn,
Người không Thánh nhãn nói càng khoa ngôn”.
Du sĩ cầu: “Thế Tôn đại hạnh,
Thuyết cho con vô bịnh Niết-bàn”.
Phật rằng: “Này hỡi thiện nam,
Có người mù mắt hòan toàn tối đen.
Có thầy thuốc chữa chuyên tận lực,
Phí công dày chẳng chút giảm thuyên.
Vậy là thầy thuốc não phiền,
Như Ta thuyết giảng huyên thuyên bất thành.
Ví có kẻ vừa sanh mù hẳn,
Nghe tiếng khen vải trắng đẹp xinh.
Y thô gặp kẻ lừa mình,
Dính đầy dầu đất đẹp xinh khen dồi.
Đắp y rồi đến hồi chữa thuốc,
Bịnh mạnh lành mắt được sáng ra.
Nhìn y tức giận thay là,
Bạn bè gạt gẫm hóa ra địch thù.
Hận thuở trước dài lâu bị gạt,
Nếu nay Ta thuyết pháp cho ngươi.
Niết-bàn vô bịnh thấy rồi,
Mở ra con mắt cho ngươi sạch làu.
Năm thủ uẩn đoạn trừ tham dục,
Ngươi nghĩ rằng dài dặc thời gian.
Bị tâm biến trá gạt lường,
Chấp lầm năm uẩn nguyên nhân sanh già.
Ưu bi khổ Hằng sa sanh khởi,
Ngũ uẩn này đầu mối khởi sanh”.
“Bạch Ngài xin thuyết pháp lành,
Cho con đứng dậy quang minh hết mù”.
“Hãy gần bậc chân tu chứng ngộ,
Ma Kiến Đề nghe rõ Pháp môn.
Sống trong Chánh pháp đúng khuôn,
Tự mình hiểu biết độc ung thân này.
Diệt chấp thủ, hữu rày cũng diệt,
Hữu diệt rồi, sanh tuyệt diệt luôn.
Già đau chết khổ không còn,
Gồm năm thủ uẩn hòan toàn diệt xong”.
“Thật vi diệu Thế Tôn cao thượng,
Như vật gì ngã xuống dựng lên.
Bàn tay chỉ lối rọi đèn,
Phơi bày ánh sáng hiện tiền liễu tri.
Con phát nguyện Qui y Tam Bảo,
Theo Thế Tôn cầu đạo xuất gia”.
Phật rằng: “Lệ Giáo hội Ta,
Có người ngoại đạo bước qua tu trì.
Phải bốn tháng hành y biệt trú,
Các Tỳ kheo tiếp độ nhận thâu”.
“Bạch Ngài con muốn được tu,
Bốn năm biệt trú dẫu lâu cũng chờ”.
Ma Kiến Đề xuất gia với Phật,
Thọ giới điều cụ túc không lâu.
Nhiệt tâm cần mẫn dồi trau,
Chứng rồi mục đích tối cao đạo lành.
Tự biết mình kiếp sanh đã tận,
Tự biết mình phạm hạnh đã thành.
Kiếp này nghiệp đã nhẹ thanh,
Không còn kiếp khác tái sanh luân hồi.
============================
KINH SA-MÔN QUẢ
(Tập I Trường Bộ Kinh)
Vua Xà Thế nhân đêm trăng sáng:
“Bạch Thế Tôn xin giảng tường minh.
Sao trăm nghề nghiệp độ sanh,
Nghề nào cũng có lợi mình lợi tha.
Duy có bậc xuất gia chưa rõ,
Lợi ích gì xin ngỏ Thế Tôn?”
Phật rằng: “Xin hỏi Đại Vương,
Có người giúp việc đáng thương vô vàn.
Sớm khuya thảy nhọc nhằn lao khổ,
Bỗng người này tự bỏ ra đi !
Nghĩ Vua chẳng thiếu phước gì,
Còn ta thiếu phước âu đi kiếm tầm.
Người ấy lại xuất trần thoát tục,
Mặc bát y thu thúc thân tâm.
Nghe tin Vua có phán rằng:
Phải đưa người ấy về cung ứng hầu?”
Vua vội bảo: “Không sao thế được,
Phải cung nghinh tiếp rước cúng dường”.
Phật rằng: “Như thế Đại Vương,
Đó là quả báo Sa-mônhiện tiền”.
Đức Phật lại giảng thêm yếu lý:
“Phật hiện thân độ thế hóa trần.
Chứng rồi Chánh Giác tuệ năng,
Thuyết ra Chánh pháp mở mang đạo tràng.
Người thông hiểu tỏ tường sáng suốt,
Rằng thế gian ràng buộc tội tình.
Chi bằng lìa bỏ gia đình,
Sống đời phạm hạnh tịnh thanh nhẹ nhàng.
Có giới bổn giữ dàng quy luật,
Không sát sanh lân tuất chúng sanh.
Không dâm, không trộm, không dành,
Cũng không nói dối khoe mình linh thiêng.
Không hai lưỡi hai bên đâm thọc,
Không ỷ ngôn, ác độc gièm pha.
Không còn trang điểm xa hoa,
Không ăn sái ngọ, không ca, không đàn.
Không thọ lãnh bạc vàng châu báu,
Không li bì uống rượu say sưa.
Giới cao, giới thấp, giới vừa,
Giữ gìn thanh tịnh lọc lừa kỹ cang.
Giới trọn vẹn vững vàng tư tưởng,
Binh hùng hào chủ tướng uy nghi.
Không còn sợ hãi ngoại vi,
Nội tâm an lạc thành trì vững kiên.
Mắt thấy sắc tâm liền phòng hộ,
Năm căn kia chế ngự kịp thì.
Muốn trừ tham ái ưu bi,
Cửa thành nghiêm nhặt chớ hề dể duôi.
Khi đi đứng tới lui tự giác,
Khi đắp y, mang bát, uống ăn.
Duỗi co, nói nín, ngồi nằm,
Thảy đều tự giác để tâm biết mình.
Hạnh tri túc đạm thanh y bát,
Như phi cầm một vật độ thân.
Cánh bay dạo khắp xa gần,
Tỳ kheo tự tại nhẹ thân tịnh nhàn.
Đường khất thực tâm an, cảnh lặng,
Dưới tàng cây, rừng vắng, nhà không.
Kiết già lưng thẳng ung dung,
Xét câu đề mục gia công tham thiền.
Dứt tham ái bụi phiền sạch quét,
Trừ hận sân lửa nghiệp nguội tàn.
Hôn trầm, trạo hối xua tan,
Nghi ngờ, do dự hòan toàn diệt phăng.
Như người được vui mừng tột đỉnh,
Thoát ngục tù dứt bịnh trầm kha.
Con đường sa mạc vượt qua,
Hết hồi nô lệ gỡ ra nợ nần.
Pháp che lấp năm phần dứt khoát,
Lần lần rồi phỉ lạc hân hoan.
Lần lần lạc thọ tâm an,
Ly trần ly dục đến thang sơ thiền.
Thiền định chứng lần lên bốn cảnh,
Dứt khổ vui thuần tịnh thân tâm.
Một màu trong sáng thấm nhuần,
Như màn vải trắng bao trùm toàn thân.
Tâm hòan chỉnh sạch ngần vô nhiễm,
Hướng dẫn tâm chánh kiến tỏ tường.
Thân ta bốn đại vô thoàng,
Trong thân có thức nhiễu nhương buộc ràng.
Như viên ngọc trang hòang sáng tỏ,
Xâu bằng dây trắng đỏ vàng xanh.
Đủ màu ngọc chiếu long lanh,
Rốt cùng ngọc cũng mong manh vô cùng.
Rút thanh kiếm từ trong bao kiếm,
Đắc thần thông biến hiện hóa thân.
Tịnh thanh chú lực toàn tâm,
Một thân hoặc biến nhiều thân lạ lùng.
Tâm thuần tịnh thần thông chứng đắc,
Túc mạng minh rõ các tiền thân.
Thiên nhãn thông thấy nguyên nhân,
Sanh thân tốt xấu do tâm dữ lành.
Tha tâm thông biết rành tâm chúng,
Như soi gương thấy đúng sạch dơ.
Nhĩ thông nghe được gần xa,
Siêu nhân Thần túc độn qua bay cùng.
Rồi đến Lậu tận thông chứng đắc,
Tứ đế tường dứt pháp trầm luân.
Không còn trở lại cảnh trần,
Hạnh lành thành tựu việc cần làm xong.
Quả thiết thực Sa-mônđạt thế,
Lợi ích nào có thể sánh hơn?”
Vua rằng: “Bạch Đức Thế Tôn,
Đạo mầu vi diệu Pháp môn tuyệt vời.
Lời thuyết giảng rạng ngời cao cả,
Như vật gì đổ ngã dựng lên.
Công ơn chỉ lối rọi đèn,
Quy y Tam Bảo phát nguyền từ đây.
Xin sám hối nghiệp dày quả nặng,
Bởi vô minh hại mạng Phụ Hòang.
Lòng từ Đức Phật rải ban,
Một niềm hối hận, muôn vàn ăn năn”.
Đức Phật bảo: “Rõ ràng trọng tội,
Nay phát lồ sám hối thành tâm.
Từ trong Chánh Pháp thậm thâm,
Nhận nhìn cải sửa đón ngăn tu trì”.
Vua từ giã ra về đảnh lễ,
Cùng Tỳ kheo Phật kể rõ thêm.
Nếu không đại tội hiện tiền,
Vua vừa nghe Pháp đắc liền Dự Lưu.
KINH Ác Ma ThỬ Thách
Kinh Tương Ưng Ác Ma thử thách,
Ác Ma nhiều quyền lực cũng nhiều.
Phật và các vị Tỳ kheo,
Đoạn trừ phiền não không theo dục tình.
Ác Ma bỗng trở thành đối tượng,
Sợ mất quyền sầu muộn ngày đêm.
Luôn theo Đức Phật một bên,
Luôn chờ lầm lỗi phá liền công phu.
Ác Ma hiện hình thù các vật,
Voi, rắn và bò đực, phi nhân.
Dữ dằn dọa nạt hung hăng,
Phật Đà tự tại, Ma quân biến hình.
“Xin Ngài chớ giảng kinh thuyết Pháp,
Ngài chứng rồi Chánh Giác cao ngôi.
An toàn đi một mình thôi,
Sao còn dạy độ kéo lôi người người ?”
“Này Ác Ma nếu ai hỏi thử,
Cõi Niết-bàn bất tử siêu sanh.
Ta đi đã đến bến lành,
Trả lời Ta phải thực hành nguyện cao”.
Ba Ma nữ dồi trau sắc đẹp,
Uốn éo lời loè loẹt áo xiêm.
Thế Tôn thắng phục chị em,
Như luồng gió quét bên thềm lá rơi.
Ác Ma lại tơi bời khảo đảo,
Khiến Tăng Ni hành đạo khó khăn.
Ai còn ái dục tục trần,
Còn trong quyền lực thuộc phần Ác Ma.
Người tinh tấn lìa xa ái dục,
Tâm tịnh thanh nhiếp phục căn trần.
Ác Ma thần chết tượng trưng,
Tà không thắng nỗi chánh chân nhiệm mầu.
Ni cô hỡi ! Nữ lưu yếu ớt,
Khó tham thiền chứng được trí minh.
Thôi đừng để quá xuân xanh,
Hẹp hòi trí tuệ bất thành công phu.
Ác Ma hỡi ! Nữ lưu tinh tấn,
Khéo tham thiền dẫn chứng trí minh.
Đạt rồi quả vị Vô sanh,
Nữ nam phân biệt bất thành từ đây.
Ôi ! Thần chết thày lay khuấy rối,
Ôi ! Ác Ma nông nổi lộng hành.
Thắng tâm đại nguyện lập thành,
Bại mưu đối tượng tự mình rút lui.
(Lược ra thơ bài thuyết giảng của Hòa Thượng Thích Minh Châu nhân ngày Phật Đản 1982 tại Viện Đại Học Vạn Hạnh).
============================
Bát Nhã Tâm Kinh
Khi hành Bát Nhã Ba La,
Ngài Quan Tự Tại soi ra tột cùng.
Thấy ra năm uẩn đều không,
Bao nhiêu khổ ách khốn cùng độ qua.
Này Xá Lợi Tử xét ra,
Không là sắc đó, sắc là không đây.
Sắc cùng không chẳng khác sai,
Không cùng sắc cũng sánh tày như nhau.
Thọ, tưởng, hành, thức, uẩn nào,
Cũng như sắc uẩn một màu không không.
Này Xá Lợi Tử ghi lòng:
Pháp không tướng ấy, đều không tướng hình.
Không tăng giảm, không trược thanh
Cũng không diệt, cũng không sanh pháp đồng.
Vậy nên trong cái chơn không,
Vốn không năm uẩn, cũng không sáu trần.
Mắt, tai, mũi, lưỡi, ý, thân,
Vị, hương, xúc, pháp, cùng phần sắc, thinh.
Từ không giới hạn mắt nhìn,
Đến không ý thức, vô minh cũng đồng.
Hết vô minh cũng vẫn không,
Chết già, hết chết già không có gì.
Không khổ, tập, diệt, đạo kia,
Trí tuệ chứng đắc, cũng là không không.
Sở thành, sở đắc bởi không,
Các vị Bồ-tát nương tùng tuệ năng.
Tâm không còn chút ngại ngăn,
Nên không còn chút băn khoăn sợ gì.
Đảo điên mộng tưởng xa lìa,
Niết-bàn mới đến bên kia bến bờ.
Ba đời Chư Phật sau xưa,
Đắc thành Chánh giác đã nhờ tuệ năng.
Trí tuệ năng lực vô ngần,
Đại minh, vô thượng, đại thần cao siêu.
Trí tuệ năng lực có nhiều,
Thật là thần chú trừ tiêu não phiền.
Trí tuệ năng lực vô biên,
Dẫn đường giải thoát qua bên giác ngàn.
Liền theo lời chú thuyết rằng:
“Độ cho giác ngộ khắp trần chúng sanh”. O
Sám Thập Phương
Mười phương ba đời Phật,
Di Đà đệ nhứt danh.
Độ sanh lên chín phẩm,
Oai đức rộng thinh thinh.
Con nay ([5])quy y Phật, O
Diệt ba nghiệp mê tình.
Bao nhiêu phần phước đức,
Hồi hướng khắp nhơn sanh.
Nguyện cùng người niệm Phật,
Cảm ứng hiện điềm lành.
Lâm chung thấy cảnh Phật.
Trước mắt hiện đành rành.
Thấy nghe đều tinh tấn.
Cực Lạc được vãng sanh.
Thấy Phật dứt sanh tử.
Như Phật độ hàm linh.
Trừ vô biên phiền não.
Tu vô lượng pháp lành.
Chúng sanh nguyền tế độ.
Phật đạo thảy viên thành.
Hư không còn có hết.
Bổn nguyện vốn không cùng.
Hữu tình vô tình khắp.
Trí tuệ chứng viên thông.O
Thập Nguyện
Một nguyền lễ kính Như Lai,
Hai nguyền xưng tán công dày Thế Tôn.
Ba nguyền tu phước cúng dường,
Bốn nguyền sám hối nghiệp vương tội trần.
Năm nguyền tùy hỷ công huân,
Sáu nguyền thỉnh chuyển pháp luân độ người.
Bảy nguyền thỉnh Phật ở đời,
Tám nguyền học Phật tùy thời phát minh.
Chín nguyền hằng thuận chúng sanh,
Mười nguyền hồi hướng phước lành khắp nơi. O
Phúng Kinh
Tụng kinh công đức tuyệt vời,
Xin đem hồi hướng khắp người gần xa.
Chúng sanh pháp giới Ta Bà,
Mau về cõi Phật Di Đà, Tây Thiên. O
Nguyện Tiêu
Nguyện tiêu tam chướng não phiền,
Nguyện thành trí tuệ vô biên tuyệt vời.
Nguyện bao nghiệp tội xa rời,
Nguyện hành Bồ-tát đời đời độ tha. O
Nguyện Sanh
Nguyện về Tịnh Độ nước nhà,
Hoa sen chín phẩm là cha mẹ mình.
Hoa khai, ngộ pháp Vô sanh,
Bất thối Bồ-tát bạn lành dựa nương. O
Hồi Hướng
Nguyện đem công đức lành,
Hồi hướng cho tất cả.
Chúng con ([6]) với chúng sanh,
Đều chứng thành Phật quả. O
Tự Quy
Tự quy y Phật,
Cầu cho chúng sanh,
Hiểu rõ đạo lành,
Phát lòng vô thượng. O
* * *
Tự quy y Pháp,
Cầu cho chúng sanh,
Kinh luật hiểu rành,
Trí tuệ như biển. O
* * *
Tự quy y Tăng,
Cầu cho chúng sanh,
Hiệp chúng đồng tình,
Chẳng hề trở ngại. O
Nam-mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật O
(3 lần)
(Lễ Tổ)
Tưởng Niệm Tổ Sư
Vun trồng một cội Bồ-đề,
Để cho trăm họ trở về nương thân.
Mà người hóa kiếp cố nhân,
Tìm đâu cho thấy vết chân phi phàm. O(3 lạy)
(Lễ Đệ Nhất Cố Ni Trưởng)
Lời Di Huấn của Cố Đệ Nhất Ni Trưởng
Ngày đã cận, cần tu gấp rút,
Giới giữ sao trong sạch như xưa.
Định Huệ không thiếu, không thừa,
Lợi ích dân chúng đúng vừa khả năng. O (3 lạy)
(Hoặc đọc bài)
Nguyện xin hiến trọn đời mình,
Cho nguồn Đạo Pháp, cho tình Quê hương. O (3 lạy)