Chương 21 – Phẩm Tám Mươi Bài Kệ
533. Chuyện tiểu Thiên nga (Tiền thân Cullahamsa)
Bầy chim không để ý gì ta…,
Đây là chuyện do bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Trúc Lâm về cách Tôn giả Ànanda đã hy sinh tính mạng.
Khi những người thiện xạ được mua chuộc để sát hại đức Như Lai và người đầu tiên được Devadatta (Đề-bà-đạt-da) phái đi làm việc này đã trở về, y nói:
– Bạch Tôn giả, con không thể đoạt mạng sống của đức Thế Tôn, vì Ngài có đủ đại thần thông lực.
Devadatta đáp:
– Thôi được, ông không cần phải sát hại Sa-môn Gotama. Ta sẽ đích thân đoạt mạng sống của vị ấy.
Thế rồi trong khi đức Như Lai đang đi dạo dưới bóng mát ngã về tây của núi Gijjhakùta (Linh Thứu), Devadatta trèo lên đỉnh núi và ném xuống một tảng đá lớn như thể từ chiếc máy lăn đá bắn ra và tự nhủ: “Với tảng đá này, ta sẽ giết Sa-môn Gotama”. Song hai đỉnh núi giao nhau chặn lấy tảng đá và một mảnh vụn văng ra đụng vào chân của đức Thế Tôn làm chảy máu, và gây đau nhức dữ dội.
Y sĩ Jìvaka lấy dao cắt rộng miệng vết thương ở chân đức Như Lai, để máu độc chảy ra và cắt bỏ chỗ thịt sưng rồi xoa thuốc vào vết thương cho lành.
Bậc Đạo Sư đi lại như trước, với các vị đại đệ tử hầu cận quanh Ngài, trong mọi dáng điệu uy nghi của một vị Phật. Vì thế, khi thấy Ngài, Devadatta nghĩ thầm: “Quả thật không có một kẻ phàm phu nào chiêm ngưỡng dung sắc tối thắng của kim thân Sa-môn Gotama lại dám tời gần vị ấy, ngoại trừ vương tượng Nàlàgiri là một mãnh thú hung dữ chẳng biết gì về các công đức của Phật, Pháp, Tăng. Nó sẽ tiêu diệt Sa-môn này”.
Thế là ông liền đi kể chuyện này với vua. Vua sẵn sàng đồng ý với đề nghị này và triệu người quản tượng vào bảo:
– Này khanh, ngày mai khanh phải làm cho Nàlàgiri say rượu đến độ điên cuồng, và lúc tảng sáng thả nó ra đường phố mà Sa-môn Gotama đi qua.
Devadatta hỏi người quản tượng ngày thường con voi này uống bao nhiêu rượu men và khi y đáp: “Tám vò”, ông bảo:
– Ngày mai hãy cho nó uống mười sáu vò rồi thả nó ra về phía con đường Sa-môn Gotama đi qua.
– Được lắm -Người quản tượng đáp.
Vua truyền đánh trống khắp kinh thành và công bố:
– Ngày mai Nàlàgiri sẽ say rượu mạnh đến điên cuồng và được thả lỏng trong kinh thành. Dân chúng trong thành phải làm mọi việc cần làm vào sáng sớm, và sau đó không ai được liều lĩnh ra đường phố.
Devadatta từ cung vua xuống tận chuồng voi và bảo đám quản tượng:
– Này ta bảo cho các ông biết, chúng ta có thể hạ nhục một người từ địa vị cao sang xuống địa vị thấp hèn và nâng một người từ địa vị thấp hèn lên địa vị cao sang. Nếu các ông muốn danh giá, thì sáng sớm ngày mai hãy cho Nàlàgiri uống mười sáu vò rượu mạnh, và đúng lúc Sa-môn Gotama đi đến lối ấy, hãy đâm con voi kia với các gậy nhọn, nó sẽ phá chuồng nổi điên, ông hãy đuổi nó ra về phía con đường Sa-môn Gotama thường đi qua và thế là tiêu diệt vị ấy.
Bọn chúng sẵn sàng làm như vậy. Tiếng đồn vang dậy khắp kinh thành. Các đệ tử tại gia thân cận Phật, Pháp, Tăng nghe tin ấy liền đến gần bậc Đạo Sư và thưa:
– Bạch Thế Tôn, Devadatta đã âm mưu với vua, ngày mai sẽ cho thả con voi Nàlàgiri ra đường mà Thế Tôn đi qua. Xin Thế Tôn ngày mai đừng vào thành khất thực, mà cứ ở lại đây. Chúng con sẽ cúng dường thực phẩm ngay tại tinh xá lên Tăng chúng với đức Phật đứng đầu.
Đức Phật không nói thẳng: “Ngày mai Ta sẽ không vào thành khất thực”, mà Ngài đáp:
– Ngày mai ta sẽ thị hiện thần thông để nhiếp phục Nàlàgiri và đánh bại tà đạo. Và vì không đi khất thực trong thành Vương Xá, ta sẽ rời thành cùng một số Tỷ-kheo hộ tống đi thẳng đến Veluvana (Trúc Lâm), rồi dân chúng ở Vương Xá sẽ đến đó mang theo nhiều bình bát thực phẩm và ngày mai họ sẽ cúng dường bữa ăn tại trai đường của tinh xá ấy.
Bằng cách này, bậc Đạo Sư đã chấp thuận lời thỉnh cầu của họ.
Khi được tin đức Như Lai đã tán đồng nguyện vọng của họ, họ ra đi từ kinh thành, mang theo nhiều bình bát thực phẩm và bảo nhau:
– Chúng ta sẽ cúng dường lễ vật ngay tại tinh xá ấy.
Còn bậc Đạo Sư thuyết Pháp vào canh một, giải đáp các vấn đề khó khăn vào canh giữa và phần đầu canh cuối, Ngài nằm nghiêng về phía hữu như dáng sư tử, giữa canh cuối Ngài an trú trong Thánh quả, và sau cùng khi Ngài nhập định đại bi vì nhân loại khổ đau, Ngài quán sát mọi người quyến thuộc của Ngài đã đủ cơ duyên thuần thục để được giáo hóa, và nhận thấy rằng do kết quả việc nhiếp phục con voi Nàlàgiri, tám mươi bốn ngàn người sẽ được thông hiểu Pháp.
Rạng ngày hôm sau, khi đã phục vụ mọi nhu cầu thân thể, Ngài nói với Tôn giả Ànanda:
– Này Ànanda, hôm nay hãy bảo tất cả Tỷ-kheo trong mười tám tinh xá quanh thành Vương Xá đến hộ tống Ta vào trong thành ấy.
Tôn giả tuân lệnh và tất cả Tăng chúng tập hợp tại Trúc Lâm.
Bậc Đạo Sư được Tăng chúng đông đảo hộ tống đi vào Vương Xá và bọn quản tượng tiến hành công việc theo lệnh truyền, còn quần chúng tụ họp thành nhiều đám. Những người mộ đạo nghĩ thầm: “Hôm nay sẽ có cuộc đại chiến giữa đức Phật là vương tượng với con voi của thế giới phàm tục này. Chúng ta sẽ chứng kiến đức Phật đánh bại Nàlàgiri nhờ thần lực vô song của Ngài”, và họ trèo lên đứng trên các lầu thượng và mái nhà cùng nóc nhà.
Còn các đám tà đạo không tin tưởng lại suy nghĩ: “Nàlàgiri là một con dã thú hung hãn, không biết gì về công đức của chư Phật. Hôm nay nó sẽ dẫm nát hình thể vinh quang của Sa-môn Gotama và khiến vị ấy phải chết. Hôm nay ta sẽ trừ khử địch thủ của ta rồi”.
Họ cũng đứng trên các thượng lầu và các chỗ cao khác.
Còn con voi, khi nhìn thấy đức Thế Tôn đến gần, đã làm mọi người kinh hoàng bằng cách phá sập nhà cửa, giương vòi ra nghiền nát xe cộ, tai vểnh, đuôi dựng ngược hùng hổ chạy như một ngọn núi sừng sững lao về phía đức Thế Tôn.
Khi thấy nó, Tăng chúng thưa với đức Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, Nàlàgiri là một dã thú hung hãn, là tên sát nhân, đang tiến đến đường này. Thật ra nó chẳng biết gì đến công đức của chư Phật. Xin đức Thế Tôn, bậc Thiện Thệ hãy lùi bước.
– Này các Tỷ-hheo, đừng sợ, Ta có đủ uy lực nhiếp phục Nàlàgiri.
Sau đó Tôn giả Sàriputta thỉnh cầu đức Phật:
– Bạch Thế Tôn, khi nào có việc gì phải phụng sự phụ thân, thì đó là trách nhiệm đặt lên vai con trưởng. Con xin nguyện nhiếp phục con vật này.
Bậc Đạo Sư lại bảo:
– Này Sàriputta, uy lực của đức Phật là một việc, còn uy lực của các đệ tử là một việc khác.
Ngài từ chối lời đề nghị của Tôn giả và bảo:
– Ông phải ở lại đây.
Đây cũng là lời thỉnh cầu của tám mươi vị Trưởng lão nhưng Ngài từ chối tất cả. Lúc ấy Tôn giả Ànanda vì lòng ái kính bậc Đạo Sư nồng nhiệt nên không thể chấp nhận việc này và kêu lớn:
– Hãy để con voi này giết con trước tiên.
Rồi Tôn giả đứng ngay trước bậc Đạo Sư, sẵn sàng hy sinh tính mạng vì đức Như Lai. Vì thế bậc Đạo Sư bảo vị ấy:
– Này Ànanda, đi ra ngay, đừng đứng trước mặt Ta.
Vị Trưởng lão đáp:
– Bạch Thế Tôn, con voi này rất hung bạo và man rợ, đó là một tên sát nhân, giống như ngọn lửa ở đầu cái vòng. Xin để nó giết con trước rồi sau đó mới đến gần đức Thế Tôn.
Và mặc dù đã được bảo đến lần thứ ba, vị Trưởng lão này vẫn đứng yên tại chỗ và không đi lui. Lúc ấy đức Thế Tôn dùng thần lực đẩy vị ấy ra sau và đưa Tôn giả vào giữa Tăng chúng. Ngay lúc này một phụ nữ chợt trông thấy Nàlàgiri, quá kinh hoảng vì sợ chết, liền chạy làm rơi đứa con mà bà đang bế bên hông xuống giữa khoảng đức Như Lai và con voi rồi vội thoát thân.
Con voi đuổi theo bà, chợt đến gần đứa bé đang khóc lớn. Bậc Đạo Sư gây xúc động với lòng từ bi được trải rộng rất đặc biệt, vừa cất giọng dịu ngọt như tiếng của Phạm thiên vừa gọi con voi Nàlàgiri:
– Này Nàlàgiri, những kẻ đã làm voi điên cuồng với mười sáu vò rượu mạnh không để cho voi tấn công kẻ nào khác, mà chúng làm vậy vì nghĩ rằng voi sẽ tấn công Ta. Đừng nhọc công chạy quanh không mục đích, mà hãy đến đây.
Khi nghe giọng nói của bậc Đạo Sư, con voi mở mắt và nhìn dáng uy nghi của đức Thế Tôn, liền xúc động mãnh liệt và nhờ thần lực của đức Phật, công hiệu độc hại của rượu mạnh tan biến mất.
Vừa hạ vòi và vẫy tai, nó vừa đi đến quỳ xuống dưới chân đức Như Lai. Lúc ấy bậc Đạo Sư bảo nó:
– Này Nàlàgiri, ngươi là một con voi hung dữ ta là vương tượng đã thành Phật. Từ nay ngươi đừng hung dữ và man rợ nữa, đừng sát nhân, mà hãy tu tập tâm từ.
Nói vậy xong, Ngài đưa tay phải ra vỗ về trán voi và thuyết Pháp qua các vần kệ này:
Nếu voi dám đánh Chúa voi này,
Voi sẽ khóc than kiếp đọa đày,
Đánh Chúa voi này, ngươi phải chịu
Đọa vào khổ cảnh kiếp sau hoài.
Từ bỏ buông lung với dại cuồng,
Kẻ ngu không đạt đến thiên đường,
Nếu mong thiên lạc trong đời kế
Voi phải lo làm việc thiện lương.
Toàn thân con voi được thấm nhuần niềm hoan hỷ, và giá như nó chẳng phải là loài vật bốn chân, thì nó đã đắc Sơ quả Dự Lưu. Dân chúng chiêm ngưỡng phép thần thông này, liền reo hò vang dậy và búng ngón tay dòn dã.
Trong niềm hân hoan, họ tung lên đủ mọi trang sức phủ khắp mình voi. Từ đó Nàlàgiri được mệnh danh là Dhanapàlaka (Tài Hộ: giữ kho báu).
Bấy giờ vào dịp gặp gỡ voi Tài Hộ này, tám vạn bốn ngàn chúng sinh được uống vị ngọt của Pháp Bất tử. Và bậc Đạo Sư đã an trú voi Tài Hộ vào Ngũ giời. Nó vừa dùng vòi hất bụi bặm từ chân đức Thế Tôn rải lên đầu nó, vừa cúi mình đi lui, rồi đứng đảnh lễ đấng Thập lực cho đến khi Ngài khuất dạng, sau đó nó quay về chuồng voi.
Từ đó về sau, nó hoàn toàn thuần thục và không hại ai cả. Bấy giờ ý nguyện của bậc Đạo Sư đã thành tựu, nên Ngài quyết định rằng kho báu ấy vẫn là tài sản của những người đã ném nó lên con voi, Ngài suy nghĩ: “Hôm nay Ta đã thực hiện một đại thần thông. Nếu Ta đi khất thực trong kình thành này thì không thích hợp”.
Thế là sau khi đánh bại đám tà đạo, Ngài được các Tỷ-kheo hộ tống đi ra kinh thành như một vị tướng lãnh chiến thắng và tiến thẳng về phía Trúc Lâm. Dân chúng đem theo một số cơm nước và thức ăn loại cứng đi vào tinh xá rồi cử hành đại lễ cúng dường.
Chiều hôm ấy, trong lúc ngồi đông đủ tại Chánh Pháp đường, Tăng chúng bắt đầu thảo luận, bảo nhau:
– Tôn giả Ànanda đã thành tựu một việc hy hữu khi sẵn sàng hy sinh tính mạng để cứu đức Như Lai. Vừa trông thấy Nàlàgiri, mặc dù đã bị bậc Đạo Sư bảo ba lần không được ở lại đó, Tôn giả vẫn không chịu đi ra. Này các Hiền giả, quả thật Trưởng lão ấy đã làm một việc hy hữu.
Bậc Đạo Sư suy nghĩ: “Câu chuyện này xoay quanh vấn đề đức hạnh của Ànanda, Ta phải hiện diện ở đó mới được”.
Ngài liền bước ra khỏi Hương phòng vừa đến hỏi hội chúng:
– Này các Tỷ-kheo, các ông đang bàn vấn đề gì trong lúc ngồi tại đây?
Và khi Tăng chúng đáp: Về vấn đề như vầy như vầy. . .,
Ngài bảo:
– Không phải chỉ bây giờ, mà ngày xưa nữa, ngay khi còn ở hình hài súc sinh, Ànanda cũng đã hy sinh tính mạng vì Ta.
Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Ngày xưa, trong quốc độ Mahimsaka ở kinh thành Sakula, có vị vua mệnh danh Sakula cai trị vương quốc theo Chánh pháp. Thời ấy, không xa kinh thành, có một người bẫy chim ở trong ngôi làng của dân bẫy chim, kiếm sống bằng nghề đánh bẫy chim và đem ra phố bán. Gần kinh thành là một hồ sen tên là Mànusiya, chu vi mười hai dặm, phủ đầy năm loại hoa sen. Một đàn chim đủ loại thường đến đó và người thợ kia tha hồ đặt bẫy. Bấy giờ chúa loài Thiên nga là Dhatarattha có đám tùy tùng gồm chín mươi sáu ngàn Thiên nga an trú trong Kim Động trên núi Cittakùta và vị đại tướng của đàn là Sumukha (Sư-mục-kha).
Một ngày kia, một đàn Thiên nga màu vàng óng ả bay đến hồ Manusiya và sau khi gặm chồi sen thỏa thích trong vùng đất phong phú thực phẩm này, chúng bay về ngọn núi Cittakùta mỹ lệ kia và trình báo với chúa chim Dhatarattha:
– Tâu Đại vương, có hồ sen tên là Mànusiya, một vùng đất thực phẩm phong phú nằm giữa nơi cư trú của loài người. Chúng thần muốn đến nơi đó ăn uống.
Chúa chim đáp:
– Những nơi cứ trú của loài người đầy nguy hiểm. Đừng để chuyện này lôi cuốn các bạn.
Sau đó mặc dù không ưng thuận đi, ngài vẫn bị chúng nài nỉ mãi, liền bảo:
– Nếu các bạn thích chuyện ấy thì chúng ta sẽ đi.
Rồi cùng với đám hầu cận, ngài bay đến đó. Vừa đáp xuống từ trên không, ngài đã đặt chân vào dây thòng lọng ngay đúng lúc ngài chạm mặt đất. Thế là dây ấy siết chân ngài như thể cái kẹp sắt và giữ chân ngài thật chặt.
Lúc ấy ngài nghĩ cách phá cái bẫy liền giật mạnh nó, trước tiên da chân rách ra, kế đó thịt bị xé ra và cuối cùng dây gân đứt, đến khi cái bẫy chạm tới xương, máu tuôn xối xả gây đau nhức dữ dội . Ngài suy nghĩ: “Nếu ta thốt tiếng kêu bị bắt, đồng loại ta sẽ hốt hoảng và nếu không được ăn gì chúng sẽ nhịn đói bay về và do kiệt sức, chúng sẽ rơi xuống nước”.
Vì vậy ngài chịu đau cho đến khi đám thân thuộc đã ăn uống no nê và vui đùa theo kiểu thiên nga, ngài cất tiếng kêu của con chim bị nạn. Nghe vậy, cả bầy Thiên nga kinh hoảng sợ chết liền bay về phía núi Cittakùta.
Ngay khi chúng đã khuất dạng, Sumukha đại tướng loại Thiên nga, suy nghĩ: “Có thể đây là một việc khủng khiếp đã xảy ra với Đại vương chăng? Ta muốn tìm xem sao”.
Rồi bay hết tốc lực mà vẫn không nhìn thấy bậc Đại Sĩ trong phần của đoàn quân Thiên nga đang bay về, chim ấy đi tìm ngài ở đoàn chim lớn, và cũng không thấy ngài đâu cả nó tự bảo: “Chắc chắn có việc gì ghê gớm xảy ra rồi”. Khi quay lại nó liền thấy bậc Đại Sĩ bị mắc bẫy, thân đầy máu đang chịu đau đớn vô cùng và đang nằm trên đám bùn. Chim ấy hạ cánh xuống đậu trên mặt đất, vừa cố sức an ủi bậc Đại Sĩ, vừa nói:
– Xin Đại vương chớ sợ, thần sẽ giải cứu Đại vương khỏi cái bẫy dù phải hy sinh tính mạng mình.
Lúc ấy, muốn thử lòng chim bạn, bậc Đại Sĩ ngâm vần kệ đầu:
1. Bầy chim không để ý gì ta,
Vội vã chúng bay biến thật xa,
Chim bị giam tìm đâu bạn hữu?
Bay ngay, đừng ở nán đây mà.
Tiếp theo đây là các vần kệ đối đáp nhau:
Đại tướng:
2. Dù có đi hay ở vời ngài,
Ngày kia thần cũng phải lìa đời,
Thần theo ngài thuở còn vinh hiển,
Lúc khổ đau không thể bước rời.
3. Hoặc thần phải chết với quân vương,
Hoặc sống đời hiu quạnh đoạn trường,
Thà chết ngay đây thì thật tốt
Còn hơn sống để khóc bi thương.
4. Bỏ ngài không đúng nghĩa quân thần,
Khi ở trong tình cảnh đáng buồn,
Thần sẽ rất hài lòng mãn nguyện
Cùng ngài chung số phận phong trần.
Nga vương:
5. Số phận nào cho chim bị giam,
Ngoại trừ dây nướng thịt hung tàn,
Tự do, trí vẫn còn suy nghĩ,
Sao có thể đành chịu bỏ thân?
6. Có lợi gì khanh hoặc với ta
Từ đây, khanh xét thấy, Thiên nga,
Lợi gì quyến thuộc ta còn sống
Nếu cả hai ta phải chết mà?
7. Kim Nga, nghĩa cử của hiền khanh
Sẽ bị màn đêm phủ thật nhanh,
Hành động hy sinh này biểu lộ
Đức gì nếu đặt dưới bình minh?
Đại tướng:
8. Ngài không thấy, hỡi Thiên nga vương,
Hạnh phúc theo sau việc Chánh chân?
Chánh nghĩa được tôn sùng xứng đáng
Dạy cho người thực chất hiền lương.
9. Thấy Chân chánh, tất cả việc lành
Có thể từ Chân chánh phát sinh,
Vì đã quý yêu ngài thắm thiết,
Thần hân hoan phóng xả thân mình.
10. Nếu biết điều Chân chánh, chúng ta
Không hề bỏ bạn lúc sa cơ,
Cho dù phải cứu mình đi nữa,
Bậc trí khuyên đây Chánh nghĩa mà.
Nga vương:
11. Chánh nghĩa của khanh đã thực hành,
Trong khi ta nhận thấy chân tình,
Đi ngay, nếu thật khanh mong muốn
Làm việc mà ta rất tán thành.
12. Có lẽ các dây thuở đã qua
Buộc ràng quyến thuộc dưới quyền ta
Kịp thời chuyển đến khanh sau đó
Với trí, tài điều khiển vượt xa.
13. Trong khi đôi bạn quý cao này
Trao đổi tâm tư tuyệt diệu vầy,
Hãy ngắm, gã săn chim táo bạo
Hiện ra trước mắt chúa tôi đây
Khác gì Thần chết đang đi đến
Trước kẻ liệt giường khốn khổ thay.
14. Đôi bạn thấy kia một kẻ thù
Nên lòng lo sợ, nặng ưu tư,
Lặng yên đậu đó không di chuyển
Khi gã đến gần tự nẻo xa.
15. Thấy bầy ngỗng nọ đã bay tung
Đây đó, biến dần giữa cõi không,
Nơi chốn đôi chim cao thượng đậu,
Cừu nhân vội vã tiến lên gần.
16. Trong lúc gã đang vội bước chân,
Đến nơi định mệnh đã dành phần,
Thợ săn rung động vì tư tưởng,
Kêu lớn: “Bầy chim bị bắt không?”
17. Gã thấy một chim trong bẫy giăng,
Và con chim nọ gã nhìn sang
Chăm lo chim bạn đang tù hãm,
Còn nó không xiềng xích buộc ràng.
18. Hoang mang trí óc lẫn hoài nghi,
Gã ngắm đôi chim cao thượng kia,
Khôn lớn cả đôi, cùng đẹp mã,
Gã liền cất tiếng, giọng từ bi:
Thợ săn:
19. Đành rằng chim bị bắt trong dây
Không thể bao giờ cất cánh bay,
Ngươi vẫn tự do và lớn mạnh,
Sao ngươi quyết ở với chim này?
20. Với ngươi, chim có họ hàng gì,
Khi cả đàn kia đã trốn di,
Dầu được tự do, ngươi ở lại,
Bên chim bị bắt một mình kia?
Đại tướng:
21. Hỡi cừu nhân của đám Thiên nga,
Ngài chính quân vương, vốn bạn mà,
Thân thiết như đời ta chẳng khác,
Ồ không, ta chẳng muốn bao giờ
Bỏ ngài trong lúc ngài lâm nạn.
Cho đến khi Thần chết gọi ta.
Thợ săn:
22. Chim này không phát hiện hay sao
Chiếc bẫy người giăng kín thế nào?
Phận sự của anh hùng tướng lãnh
Là đề phòng hiểm họa gian lao.
Đại tướng:
23. Khi người sắp gặp bước suy tàn,
Giờ Tử thần đang tiến lại gần,
Dù bạn đến kề bên chiếc bẫy,
Cũng không thấy bẫy sập dây giăng!
Thợ săn:
24. Bẫy dù đủ loại, hỡi chim Thần,
Đôi lúc đặt ra chỉ uổng công,
Đến phút cuối cùng do định mệnh
Con người bị bẫy kín, thương vong.
Như vậy là nhờ đối thoại với gã bẫy chim mà đại tướng Thiên nga đã xoa dịu lòng gã, và chim ấy ngâm vần kệ xin gã tha mạng cho bậc Đại Sĩ:
25. Có phải đây là kết quả lành
Do lời thân thiện với tôn huynh
Xin người tha mạng đôi ta với,
Ta được tự do giải thoát nhanh.
Người bẫy chim say mê giọng đối đáp dịu ngọt của Sumukha, liền ngâm kệ:
26. Này chim, ngươi chẳng bị giam mình,
Hãy chạy đi, mau chạy thật nhanh,
Ta chẳng muốn thân ngươi đổ máu,
Bình an, hãy sống chuỗi ngày xanh.
Tiếp theo sau chim Sumukha ngâm bốn vần kệ:
27. Ta không tha thiết sống riêng ta,
Nếu bạn ta đây phải chết mà,
Xin hãy vui lòng tha vị ấy,
Thịt ta thay thế chúa Thiên nga.
28. Chúng ta về tuổi tác tương đồng,
Cùng cỡ rộng dài các cẳng chân,
Không mất gì, dù người đổi lấy
Mạng ta thay thế mạng quân vương.
29. Hãy xét xem ta với cách này,
Thỏa lòng thèm muốn với ta đây,
Trước tiên hãy buộc ta vào bẫy,
Rồi để chúa chim giải thoát ngay.
30. Do đó người thành tựu ước mong,
Và ta đạt nguyện vọng trong lòng,
Thiên nga, Tôn giả đều hòa hợp
Trong lúc đời trôi mãi chẳng dừng.
Vậy là nhờ nghe giảng Pháp lành, tim người thợ săn dịu lại, như thể vải được nhúng dầu và gã giao bậc Đại Sĩ cho chim ấy, khác nào giao nô lệ cho chủ nhân, rồi ngâm kệ:
31. Xin làm chứng, các bậc hiền nhân
Nô lệ, họ hàng, các bạn thân,
Do chính một mình ngươi cứu giúp
Chúa chim đượcgiải thoát giam cầm.
32. Ít ai có được một thân bằng
Như chính ngươi đang thật sẵn sàng
Chia xẻ cùng nhau chung số phận
Khi chim chúa gặp bẫy vong thân.
33. Vậy chúa chim này, ta thả ra
Bạn ngươi, theo gót cũng bay xa,
Mau lên, giữa đám chim thân thuộc
Ngươi sẽ như sao chiếu sáng lòa.
Nói vậy xong, người đánh bẫy kia với từ tâm đến gần bậc Đại Sĩ và cắt các sợi dây ra, ôm ngài trong tay, đưa ngài ra khỏi nước và đặt ngài trên đám cỏ xanh tươi bên bờ hồ, rồi hết sức dịu dàng, gã nhẹ tay nới lỏng chiếc bẫy đã trói chân ngài rồi ném nó ra xa.
Sau đó, phát sinh tình thương mến mãnh liệt đối với bậc Đại Sĩ, với tâm lòng tràn ngập niềm thân ái, gã lấy nước rửa máu ở vết thương của ngài và chùi sạch sẽ. Do năng lực của từ tâm ấy, vết thương ở chân Bồ-tát khép lại dần, gân nối liền gân, thịt liền thịt, da liền da. Da non hiện ra và lông tơ mọc phủ lên đó.
Bồ-tát vẫn giống hệt như trước kia chân không hề bị sa bẫy bao giờ và an toàn theo tư thế bình thường hoan hỷ. Lúc ấy Sumukha chiêm ngưỡng bậc Đại Sĩ hạnh phúc như vậy, tất cả đều do hành động của mình, trong niềm vui tràn trề, nó ca tụng người bẫy chim.
*
Bậc Đạo Sư ngâm vần kệ làm sáng tỏ vấn đề:
34. Hoan hỷ nhìn chim chúa thoát thân
Ngỗng làm vinh dự đấng minh quân,
Và êm tai kẻ làm ân phước,
Bằng những lời hay đẹp nhất trần:
35. “Lạp hộ, cùng thân quyến cả nhà,
Mong chư vị hạnh phúc chan hòa
Như ta hạnh phúc khi nhìn thấy
Chim chúa Thiên nga được thả ra”.
Sau khi tán thán người bẫy chim như vậy, tướng quân Sumukha nói với Bồ-tát:
– Tâu Chúa thượng, người này đã cống hiến chúng ta một công đức thật vĩ đại: ví thử y không nghe lời chúng ta, y có thể được đại phú hoặc bằng cách luyện tập chúng ta cho thuần để nuôi làm trò tiêu khiển và đem dâng các vị Đại vương nào đó hoặc giết chúng ta để bán làm thức ăn. Song y đã nghe theo lời ta mà hoàn toàn không quan tâm đến kế sinh nhai của y. Vậy ta hãy đưa y vào yết kiến quốc vương và làm cho y được hạnh phúc suốt đời.
Bậc Đại Sĩ chấp thuận việc này ngay.
Sau khi vừa đàm luận với bậc Đại Sĩ bằng ngôn ngữ riêng của loài chim xong, tướng quân Sumukha nói với kẻ bẫy chim bằng tiếng người và hỏi:
– Này hiền hữu, tại sao hiền hữu đặt bẫy?
Để kiếm lợi – Gã đáp.
Sumukha bảo:
– Nếu vậy thì hiền hữu hãy đưa chúng ta vào thành trình diện với đức vua, ta sẽ thuyết phục đức vua ban phú quý cho hiền hữu.
Và chim ấy ngâm các vần kệ:
36. Nhanh lên, ta sẽ dạy cho người
Phương cách tìm ra thật lắm lời,
Khi thấy đại danh chim ngỗng chúa,
Chẳng mang tỳ vết nhỏ nhất đời.
37. Mau đem ta đến chốn triều đường,
Thân thể bình an được vẹn toàn,
Đứng ở mỗi đầu, không trói buộc,
Phía trên đòn gánh của người mang.
38. Rồi người hãy nói: “Tấu Minh quân,
Thần đến mang theo cặp ngỗng hồng,
Một chủ tướng đầu đàn ngỗng ấy,
Còn chim kia chính Thiên nga vương”.
39. Chúa tể loài người ấy ngắm xem
Thiên nga vương giả, sẽ bừng lên
Bao niềm hoan hỷ và sung sướng,
Sẽ tặng người vô số bạc tiền.
Khi chim ấy nói xong, người bẫy chim đáp:
– Xin các vị đừng mong muốn yết kiến đức vua nữa. Vua chúa quả thật tâm tính hay thay đổi: họ sẽ bắt giữ các vị để làm trò tiêu khiển hoặc giết chết các vị đấy.
Sumukha đáp:
– Này hiền hữu, đừng sợ gì cả. Ta đã thuyết Pháp làm dịu lòng một kẻ độc ác như bạn và đã khiến bạn quy phục ta, dù người là một kẻ bẫy chim với bàn tay vấy máu đỏ. Còn các vua chúa thật ra đầy nhân từ và trí tuệ, là những người có thể phân biệt lời lẽ thiện ác. Vậy hãy mau đưa chúng ta vào yết kiến đức vua của hiền hữu.
Người bẫy chim nói:
– Thôi được, xin các vị chớ giận tôi . Nếu việc này làm các vị thật sự thích thú, thì tôi sẽ đưa các vị đến yết kiến vua.
Thế rồi gã đưa đôi chim lên đòn gánh của gã và đi đến triều đình xin bệ kiến vua. Khi được vua hỏi chuyện, người bẫy chim công bố mọi sự kiện của trường hợp này.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:
40. Vội làm khi gã mới nghe xong
Việc các chim mong tận cõi lòng,
Đem cặp hồng nga vào bệ kiến,
Bình an, thân thể mạnh hoàn toàn,
Đậu kia, chẳng có gì ràng buộc,
Trên mỗi đầu đòn gánh gã mang.
41. Rồi người ấy nói: “Tấu Minh quân
Thần đến mang theo cặp ngỗng hồng,
Một chủ tướng đầu đàn ngỗng ấy,
Còn chim kia chính Thiên nga vương .
42. “Kìa, những chim này mạnh biết bao,
Trở thành mồi bẫy của ngươi sao,
Sao ngươi bò tới gần bên chúng
Chẳng khiến chúng kinh hãi tẩu đào?”
43. “Trong ao hồ, khải tấu Minh quân,
Xin hãy ngắm xem bẫy lưới giăng,
Trong mọi chốn loài chim trú ẩn,
Bẫy thường được đặt tạo thương vong.
44. Chính trong một bẫy kín như vầy
Thần đã bắt chim chúa ngỗng này,
Chim bạn tự do ngồi kế cận
Và mong cầu chúa thoát tù đày.
45. Chim này làm phận sự hơn xa
Thành tựu phàm nhân đạt đến mà,
Cương quyết tập trung toàn nỗ lực
Làm cho chim chúa được buông tha.
46. Chim đằng kia muốn chịu hy sinh,
Xứng đáng hưởng thêm cuộc sống mình,
Ví thử chúa chim này được sống,
Chúa chim đã được bạn tôn vinh.
47. Nghe những lời chim ấy giải bày,
Tiểu thần liền đạt phước ân ngay,
Hân hoan giải phóng chim tù tội,
Ra lệnh đôi chim cất cánh bay.
48. Hoan hỷ nhìn chim chúa thoát thân,
Ngỗng làm vinh dự đấng minh quân,
Và êm tai kẻ làm ân phước
Bằng những lời hay đẹp nhất trần:
49. “Lạp hộ, cùng thân quyến họ hàng,
Mong chư vị hạnh phúc muôn vàn
Như ta hạnh phúc khi nhìn thấy
Chúa chim Thiên nga được thoát nạn,
50. Nhanh lên, ta sẽ dạy cho người
Phương cách tìm ra thật lắm lời,
Khi thấy đại danh chim ngỗng chúa
Chẳng mang tỳ vết nhỏ nhất đời.
51. Mau đem ta đến chốn triều đường,
Thân thể bình an được vẹn toàn,
Đứng ở mỗi đầu, không trói buộc,
Phía trên đòn gánh của người mang.
52. Rồi người hãy nói: “Tấu Minh quân,
Thần đến mang theo cặp ngỗng hồng,
Một chủ tướng đầu đàn ngỗng ấy,
Còn chim kia chính Thiên nga vương”.
53. Chúa tể loài người ấy ngắm xem
Thiên nga vương giả, sẽ bừng lên
Bao niềm hoan hỷ và sung sướng,
Sẽ tặng người vô số bạc tiền .
54. Do vậy, theo lời chim bảo ban
Thần đưa đôi ngỗng đến triều đường,
Mặc dù chúng tự do tìm kiếm
Nơi trú bình an ở núi ngàn.
55. Chim kia có số phận như vầy,
Dù thật chánh chân đến thế này
Có thể chuyển lay lòng trắc ẩn
Thợ săn hung bạo tựa thần đây.
56. Thiên nga này, khải tấu Minh quân,
Tặng vật tiểu thần đến hiến dâng,
Giữa những chốn người săn đặt bẫy,
Hiếm khi tìm được vật ngang bằng.
Như vậy, gã đứng đó tán dương những đức hạnh của Sumukha. Sau đó vua Sakula tặng ngỗng chúa một bảo tọa cao sang và Sumukha một kim đôn quý giá. Khi đôi chim đã an tọa, vua mới dùng bắp rang, mật ong, mật mía và các món tương tự đựng trong các chén dĩa bằng vàng. Khi đôi chim đã ăn xong, vua chấp hai tay thỉnh cầu bậc Đại Sĩ thuyết Pháp rồi ngồi xuống một kim đôn nữa.
Theo lời thỉnh cầu ấy, chúa Thiên nga đàm đạo đầy hứng thú với vua.
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ mọi việc:
57. Giờ đây nhìn thấy đấng quân vương
An tọa kim đôn sáng rỡ ràng,
Chim ngỗng dùng âm thanh dịu ngọt
Làm êm tai chúa tể trần gian.
Thiên nga:
58. “Đại vương, ngọc thể có khang an,
Vạn sự Đại vương thảy vẹn toàn,
Quý quốc hẳn là đang thịnh vượng,
Được ngài cai trị thật công bằng?”
Quân vương:
59. Nga vương, trẫm vẫn được khang an,
Vạn sự trẫm đây được vẹn toàn,
Bổn quốc hiện giờ rất thịnh vượng,
Hưởng nền cai trị thật công bằng.
Thiên nga:
60. Ngài có triều thần thật chánh chân,
Biết khuyên nhủ chúa, chẳng sai lầm,
Nếu cần, họ sẵn sàng liều chết
Vì chánh nghĩa và danh chúa công?
Quân vương:
61. Trẫm có triều thần thật chánh chân,
Biết khuyên nhủ trẫm, chẳng sai lầm,
Nếu cần, họ sẵn sàng liều chết
Vì chánh nghĩa và danh quả nhân.
Thiên nga:
62. Phải chăng hoàng hậu cũng chung dòng,
Lời lẽ ôn nhu, biết phục tòng,
Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
Vâng chiều mọi Thánh ý Minh quân?
Quân vương:
63. Trẫm nay có chánh hậu chung dòng,
Lời lẽ ôn nhu biết phục tòng,
Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
Vâng chiều mọi ý trẫm cầu mong.
Khi Bồ-tát đã chấm dứt những lời chào hỏi thân hữu xong, vua lại đàm đạo cùng ngài:
Quân vương:
64. Khi vận rủi kia đưa đẩy ngài,
Đến cừu nhân tối hiểm trên đời,
Khi ngài gặp phải tay người ấy,
Ngài đã chịu bao thống khổ rồi?
65. Gã kia có chạy, gậy trong tay
Đánh đập các ngài, nói trẫm hay?
Với những con người gian ác ấy
Trẫm thường nghe nói cách như vầy.
Thiên nga:
66. Ta không hề gặp bước gian nan
Trong lúc lòng ta vẫn nhớ ơn
Kẻ ấy chẳng bao giờ đối xử
Với ta như những bọn cừu nhơn.
67. Người bẫy chim run rẫy, ngạc nhiên,
Cầu mong hỏi chuyện của đôi chim,
Và Sư-mục, tướng quân khôn nhất,
Đã trả lời ngay kẻ ấy liền.
68. Nghe những lời chim tuớng giải bày
Người kia liền đạt phước ân ngay,
Hân hoan giải thoát ta từ bẫy,
Ra lệnh đôi ta cất cánh bay.
69. Tâu Đại vương, Sư-mục ước mong
Đến đây và yết kiến long nhan,
Nghĩ rằng người bẫy chim thân hữu
Sẽ kiếm ra vô số bạc vàng.
Quân vương:
70. Cung nghênh các vị, đúng hoàn toàn,
Trẫm thật hân hoan gặp bạn vàng,
Hiền hữu bẫy chim rồi sẽ nhận
Thỏa lòng mọi tặng vật trần gian.
Nói vậy xong, vua nhìn thẳng một vị cận thần và khi vị ấy hỏi:
– Tâu Đại vương, xin cho biết Thánh ý.
Vua đáp:
– Khanh hãy đưa người bẫy chim này đi tỉa gọn râu tóc và sau khi gã được tắm rửa, xoa dầu thơm, hãy cho gã phục sức xiêm y lộng lẫy và đưa gã lại đây.
Khi việc này đã xong và người bẫy chim được dẫn đến, vua ban ân cho gã một ngôi làng hằng năm sinh lợi một trăm ngàn đồng tiền và thêm một ngôi nhà đứng ở vị trí giáp hai mặt đường, một cỗ xe lộng lẫy và cả kho vàng ròng.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:
71. Quân vương rộng lượng đã truyền ban
Người bẫy chim vô số bạc vàng,
Sau đó hồng nga cất tiếng nói
Âm thanh mê mẩn cả tâm can.
*
Sau đó bậc Đại Sĩ thuyết Pháp cho vua, và khi nghe ngài giảng giải, vua sinh tâm hoan hỷ, mong muốn bày tỏ dấu hiệu kính trọng đối với vị Pháp sư, vua liền tặng ngài chiếc lọng trắng, vừa dâng lên ngài cả quốc độ vừa ngâm các vần kệ này:
72. Những gì trẫm có, đúng công bằng
Những vật trẫm đòi hỏi chánh chân,
Sẽ chuyển qua quyền ngài thọ hưởng,
Nếu ngài nêu nguyện ước trong tâm.
73. Dẫu ngài đem bố thí ban ân,
Hoặc sử dụng, hay muốn hưởng phần,
Trẫm nhượng quyền hành cùng tất cả,
Và giao ngài cả chiếc ngai vàng.
Bậc Đại Sĩ liền trao trả chiếc lọng trắng mà vua đã tặng ngài. Rồi vua suy nghĩ: “Ta đã nghe Pháp do vị chúa hồng nga thuyết giảng, song vị tướng quân Sumukha này được gã bẫy chim tán tụng nhiệt liệt là nói năng dịu ngọt như mật rót vào tai, vậy ta cũng muốn nghe chim ấy thuyết Pháp”. Thế là vua ngâm vần kệ khác để đàm đạo với chim ấy:
74. Trí hiền Sư-mục thật tinh thông,
Ví thử nói ra tự nguyện lòng
Chỉ một hai lời thôi cũng đủ
Trẫm đây hạnh phúc bội muôn phần.
Sau đó Sumukha đáp:
75. Xin tâu Chúa thượng, trước Minh quân,
Đúng phép, tôi không dám nói năng
Dù chỉ một đôi lời nhỏ mọn,
Khác nào vương tử của Long thần.
76. Vì chúa hồng nga hiện diện đây,
Và ngài Đại đế tối cao vầy,
Có quyền đòi hỏi đầy chân chánh
Niềm kính trọng tôi phải tỏ bày.
77. Thần tôi hèn mọn, tấu Quân vương,
Nên chẳng dám can thiệp luận bàn,
Khi nhị Đại vương đang nghị sự
Bao điều quan trọng giữa triều đường.
Vua nghe chim ấy nói, lòng đầy hoan hỷ phán bảo:
– Người bẫy chim nhiệt liệt ca tụng tướng quân, chắc chắn không thể có được ai khác như khanh cả, quả thật khanh là vị thuyết Pháp êm dịu làm sao!
Vua ngâm các vần kệ này:
78. Người bẫy chim ca tụng nhiệt tình
Chim này trí tuệ, tuyệt thông minh,
Tinh khôn như vậy đâu tìm thấy
Ở kẻ trí chưa được học hành.
79. Trong đám chim cao quý trẫm xem
Chim này vô địch giữa đàn em,
Tối cao đức tính chim đầy đủ
Đệ nhất hữu tình vượt hẳn lên.
80. Hình dáng thanh cao, giọng ngọt ngào
Khiến lòng mê mẩn biết dường nào,
Ước mong của trẫm là hai vị
Ở mãi bên mình thỏa ước.
Sau đó bậc Đại Sĩ ngâm kệ ca tụng vua:
81. Ngài đối đãi đây với chúng thần
Như người đối với đại thân bằng,
Này đây Chúa thượng vừa ban phát
Hèn mọn đội chim hưởng phước ân.
82. Song đàn chim quyến thuộc kêu than
Xa vắng lâu ngày đã bặt tăm,
Và có nhiều chim đầy khổ não
Vì không còn thấy bóng Nga vương.
83. Vậy để xua tan nỗi khổ này,
Đại vương, xin thả chúng thần ngay,
Cúi xin Chúa thượng nay cho phép
Gặp lại thân bằng, cất cánh bay.
84. Hôm nay hạnh ngộ đấng Quân vương,
Thần thấy tâm hoan hỷ ngập tràn,
Thần chắc từ nay toàn bạn hữu
Chẳng còn duyên cớ để kinh hoàng.
Khi ngài nói vậy xong, vua mới chịu để hai vị giã từ. Bậc Đại Sĩ lại thuyết giảng với vua về nỗi khổ đau theo liền Ngũ ác dục và niềm hạnh phúc đi theo công đức, rồi ngài khích lệ vua:
– Xin Đại vương giữ giới luật và trị dân chân chánh cùng thu phục nhân tâm với Tứ Nhiếp pháp (Bốn pháp hòa hợp: Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự)
Sau đó ngài khởi hành về núi Cittakùta.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:
85. Như vầy với chúa tể loài người,
Chim chúa Dha-ta đã đáp lời,
Sau đó tìm thân bằng quyến thuộc,
Tung đôi cánh mạnh nhất lên trời.
86. Nhìn chủ tướng chim được vạn an
Trở về từ cõi chết nhân gian,
Đàn chim vỗ cánh kêu ầm ĩ
Chào đón chúa chim lại họp đàn.
87. Vây quanh chúa tể chúng tôn sùng,
Tin tưởng, giờ đây đám ngỗng hồng
Kính cẩn nghiêng mình chào chúa tể
Hân hoan vì chúa được an thân.
Trong khi hộ tống chim chúa, bầy Thiên nga hỏi ngài:
– Tâu Chúa thượng, làm thế nào ngài thoát nạn?
Bậc Đại Sĩ thuật cho chúng nghe ngài được giải thoát nhờ Sumukha giúp đỡ, và nói về hành động của vua Sakula cùng người bẫy chim.
Nghe vậy cả bầy Thiên nga hân hoan ca ngợi tất cả các vị:
-Vạn tuế tướng quân Sumukha của đàn Thiên nga, và Đại vương Sakula cùng chú bẫy chim. Cầu mong các vị an lạc hạnh phúc lâu dài.
Bậc Đạo Sư ngâm vần kệ cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề:
88. Ai có từ tâm ắt đạt thành
Việc gì các vị ấy thi hành,
Như Thiên nga trở về bằng hữu
Lần nữa đôi chim được trọn lành.
*
Đến đây bậc Đạo Sư chấm dứt Pháp thoại và bảo:
– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà cả ngày xưa nữa, Ànanda cũng đã hy sinh tính mạng vì Ta.
Và Ngài nhận diện Tiền thân:
– Thời ấy, Channa (Xa-nặc) là người bẫy chim, Sàriputta (Xá-lợi-phất)là nhà vua, Ànanda (A-nan) là Sumukha, các đệ tử đức Phật là chín mươi ngàn Thiên nga, và Ta chính là chúa Thiên nga.
-ooOoo-
534. Chuyện đại Thiên nga (Tiền thân Mahàhamsa)
Kìa đám hồng nga cất cánh bay…,
Chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Trúc Lâm, về việc Trưởng lão Ànanda hy sinh tính mạng.
Phần duyên khởi cũng giống hệt như chuyện đã có nhưng vào dịp này, trong lúc bậc Đạo Sư kể chuyện quá khứ, đã tường thuật cổ tích sau đây.
*
Ngày xưa ở thành Ba-la-nại, một vị quốc vương mệnh danh Samyama có vị chánh hậu tên là Khemà (Thái Hòa). Thời ấy, Bồ-tát cùng đám tùy tùng chín mươi ngàn thiên nga trú trên đỉnh núi Cittakùta.
Một ngày kia vào lúc tảng sáng, hoàng hậu Khemà thấy chiêm bao: một bầy thiên nga màu vàng ánh đến đậu trên ngai vua và thuyết Pháp với giọng ngọt ngào. Trong khi hoàng hậu đang lắng tai nghe và tán thán mà chưa được trọn bài thuyết giảng, thì bình minh đã đến, bầy thiên nga liền chấm dứt Pháp thoại và bay qua cửa sổ mở rộng Hoàng hậu vội vàng thức dậy kêu to:
– Bắt lấy chúng, bắt lấy bầy thiên nga trước khi chúng thoát thân.
Và trong lúc vừa dang rộng cánh tay, bà tỉnh dậy. Nghe lời bà, đám cung nữ thưa:
– Tâu lệnh bà, bầy thiên nga ở đâu?
Và chúng cười khúc khích.
Lúc ấy, hoàng hậu biết đó chỉ là giấc mơ, và nghĩ thầm: “Ta không thể thấy một vật không có thật: chắc chắn có loài kim nga trên đời này, song nếu ta tâu đức vua: “Thiếp mong muốn nghe loài kim nga thuyết Pháp” , ngài sẽ bảo: “Ta chưa từng thấy giống kim nga nào cả, làm gì có chuyện chim kim nga thuyết Pháp”. Và ngài sẽ không quan tâm đến vấn đề đó. Song nếu ta tâu: “Thần thiếp có niềm ao ước ấy trong lúc mang thai”, ngài sẽ cho tìm chúng mọi cách và thế là ta được thỏa tâm nguyện”.
Vì vậy, vừa giả bệnh, vừa dặn dò các cung nữ xong, bà đi nằm. Khi vua đã ngự lên ngai mà không thấy bà đến yết kiến như thường lệ, liền hỏi hoàng hậu Khemà ở đâu và khi nghe bà bị bệnh, vua đến thăm bà, vừa ngồi một bên giường bà, vừa vuốt lưng và hỏi thăm bệnh tình của bà. Bà đáp:
– Tâu Chúa thượng, thần thiếp chẳng bệnh gì cả, song thiếp chợt có những mềm ao ước của một thai phụ.
– Này ái khanh, cứ nói đi, ái khanh muốn gì, trẫm sẽ tìm được cho ái khanh ngay.
– Tâu Chúa thượng, thiếp ao ước nghe chim kim nga thuyết Pháp trong lúc chim ấy ngự trên ngai vàng, có chiếc lọng che trên đầu, và thiếp mong dâng lên chim ấy nhiều tràng hoa thơm cùng các lễ vật khác để tỏ lòng cung kính tán thán của thiếp. Nếu thiếp đạt được điều này thì quý biết bao, nếu không, thiếp chẳng muốn sống nữa.
Vua liền an ủi bà và bảo:
– Nếu có vật ấy trên thế giới này thì ái khanh sẽ được toại nguyện, chớ lo buồn.
Rồi ra khỏi cung thất của hoàng hậu, vua tham vấn các vị đại thần và phán:
– Này các khanh, hãy lưu ý: hoàng hậu Khemà bảo: “Nếu thiếp nghe được chim kim nga thuyết Pháp thì thiếp sẽ sống, nếu không, thiếp sẽ chết”. Vậy hãy cho trẫm biết, có loài chim kim nga nào chăng?
Triều thần đáp:
– Tâu Chúa thượng, chúng thần chưa từng nghe hoặc thấy loài ấy.
– Thế ai biết được chuyện này?
– Tâu Chúa thượng, các Bà-la-môn.
Vua liền triệu tập các Bà-la-môn đến và hỏi:
– Có chuyện nào như việc loài chim kim nga thuyết Pháp chăng?
– Tâu Đại vương, có. Theo truyền thuyết của chúng thần, các loài cá, cua, rùa, nai, công và thiên nga đều có sắc vàng ánh. Trong số ấy, người ta bảo dòng giống Thiên nga Dhatarattha rất tinh khôn thông thái. Cộng thêm loài người nữa là bảy loài sinh vật có màu vàng ròng.
Vua vô cùng hoan hỷ, hỏi:
– Vậy loài hồng nga thông thái này cư ngụ ở đâu?
– Tâu Đại vương, chúng thần không biết.
– Thế thì ai biết chứ?
– Bọn bẫy chim – Họ đáp.
Vua liền tập hợp tất cả dân bẫy chim từ khắp nước về, và hỏi họ:
– Này các hiền hữu, các chim kim nga thuộc dòng giống Dhatarattha cư trú ở đâu?
Một người bẫy chim đáp:
– Tâu Đại vương, theo truyền thuyết từ đời nọ sang đời kia, người ta bảo chúng cư trú trong dãy Tuyết Sơn, trên đỉnh Cittakùta.
– Vậy khanh có biết làm cách nào bắt được chúng chăng?
– Tâu Đại vương, thần không biết.
Vua liền triệu tập các Bà-la-môn thông thái, sau khi cho họ biết có loài chim kim nga trên đỉnh Cittakùta, vua hỏi họ có cách nào để bẫy chúng chăng. Họ đáp:
– Tâu Đại vương, cần gì chúng thần phải bắt chim? Chúng thần sẽ bày mưu kế đưa chim về gần kinh thành và bắt chúng.
– Mưu kế gì vậy?
– Tâu Đại vương, về phía bắc kinh thành, xin Đại vương ra lệnh đào một cái hồ rộng ba dặm, một địa điểm thật an toàn, chứa đầy nước, trồng đủ loại ngũ cốc cùng năm loại hoa sen phủ mặt hồ. Rồi giao hồ cho một người bẫy chim thiện xảo chăm sóc, không cho phép ai đến gần hồ, và phân công nhiều người canh giữ bốn góc, rao truyền cho dân chúng biết đây là hồ bảo tồn chim muông. Khi nghe vậy, mọi loài chim sẽ đến đó. Sau đó các chim kim nga này nghe bọn chúng bảo nhau hồ này thật an toàn, tức nhiên sẽ đến thăm hồ và Đại vương sẽ bảo lấy thòng lọng bẫy chúng.
Vua nghe vậy, liền bảo đào hồ như họ miêu tả ở vùng họ nói, rồi triệu một người bẫy chim thiện xảo đến, ban cho gã một ngàn đồng tiền và phán:
– Từ nay ngươi hãy bỏ nghề cũ, trẫm sẽ cấp dưỡng vợ con gia đình ngươi. Cẩn thận canh giữ hồ bình an này và buộc mọi người phải tránh xa hồ, truyền rao khắp bốn phương rằng đây là hồ bảo tồn chim muông, hễ có loài chim nào lai vãng nơi đây đều là của trẫm, và khi loài chim kim nga đến, ngươi sẽ được vinh hoa phú quý.
Cùng với những lời khích lệ này, vua giao gã chăm nom hồ bảo tồn. Từ ngày ấy, gã bẫy chim làm đúng như vua truyền canh giữ nơi ấy và do gã bảo vệ hồ bơi được bình an, sẽ dần dần được mệnh danh là người bẫy chim Khemà (Bình An).
Từ đấy, mọi loài chim đến đậu nơi ấy, và vì chúng truyền tin cho nhau rằng hồ này bình an ổn định, nên nhiều loài thiên nga bay đến. Trước hết là loài thiên nga màu cỏ xanh, rồi nhờ chứng loan báo, kế đó là loài hoàng nga, và theo cách này giống thiên nga đỏ tía, thiên nga trắng và thiên nga Paka lần lượt đến.
Khi chúng đến, Khemà trình vua như vầy:
– Tâu Đại vương, năm loài thiên nga đã đến, và chúng vẫn đang tiếp tục ăn uống hồ này. Giờ đây thiên nga Paka đã đến, chỉ vài ngày nữa là loài kim nga sẽ đến. Xin Đại vương chớ lo âu nữa.
Vua nghe vậy liền truyền đánh trống lệnh công bố khắp kinh thành rằng không ai được phép đến nơi kia, bất cứ kẻ nào bất tuân sẽ chịu hình phạt chặt tay chân và tịch thu gia sản, nên từ đó không ai dám đến đó nữa.
Bấy giờ, thiên nga Paka cư trú không xa đỉnh Cittakùta trong Kim Động. Loài chim này có sức mạnh phi thường và cũng giống như thiên nga dòng họ Dhatarattha, màu sắc thân của chúng rất đặc sắc, còn con gái của Thiên nga vương Paka lại có màu vàng ánh. Vì thế vua cha nghĩ rằng nàng xứng đôi với Thiên nga vương Dhatarattha và gả nàng cho vua chim kia. Nàng rất được vua chim sủng ái, nhờ vậy hai dòng họ thiên nga này trở nên thân thiết nhau.
Một hôm bầy thiên nga hầu cận Bồ-tát hỏi thiên nga Paka:
– Các bạn tìm thức ăn ở đâu bây giờ?
– Chúng tôi đang kiếm ăn gần Ba-la-nại, trong một vùng nước an toàn, nhưng còn các bạn bay tận đâu?
– Đến nơi như vầy, như vầy – Chúng đáp.
– Sao các bạn không đến hồ bảo tồn chim muông? Đó là một cái hồ tuyệt đẹp, đủ các loài chim, được năm loại sen bao phủ, rất nhiều loại ngũ cốc và quả cây, cùng nhiều đàn ong đủ loại bay lượn vo ve. Tại bốn phía đều có người canh giữ công bố hồ được vĩnh viễn tránh khỏi hiểm nguy. Không ai được phép đến gần, lại càng không có việc hại nhau đâu.
Theo cách này, chúng cứ ca tụng hồ bình an mãi. Khi nghe chuyện thiên nga Paka nói, chúng trình với Sumukha (Sư-mục-kha).
– Bầy chim kia bảo chúng thần ở gần Ba-la-nại có một hồ bình an như vầy, dòng họ Paka vẫn thường đi ăn tại đó. Xin tướng công tâu với Đại vương Dhatarattha và nếu ngài cho phép chúng thần, thì chúng thần cũng sẽ kiếm mồi tại đó.
Sumukha trình với chúa chim, ngài suy nghĩ: “Loài người quả thật đầy mưu thần chước quỷ. Chắc chắn phải có lý do gì đây. Từ xưa tới nay không hề có hồ như vậy. Chắc hẳn bây giờ hồ đã được xây để bắt chúng ta”. Ngài liền bảo Sumukha:
– Khanh đừng tán thành việc đi đến hồ kia. Hồ này chẳng được họ xây bằng thiện ý đâu; mà nó được xây để bắt chúng ta đó. Chắc chắn loài người đầy ác tâm và mưu mô xảo quyệt. Hãy ở lại chỗ các khanh thường kiếm mồi.
Lần thứ hai bầy kim nga thưa với tướng Sumukha rằng chúng rất nóng lòng đi đến hồ Bình An và vị ấy lại trình nguyện vọng của chúng lên chúa chim. Bậc Đại Sĩ suy nghĩ: “Không nên để quyến thuộc ta bất mãn vì ta. Vậy chúng ta cùng đến đó”.
Vì vậy được chín mươi ngàn thiên nga hộ tống, ngài bay đến đó và gặm chồi non, vui đùa theo cung cách loài thiên nga xong rồi bay về núi Cittakùta.
Sau khi bầy chim đã ăn uống và giã từ, gã bẫy chim Khemaka đi trình vua Ba-la-nại việc chim đã đến. Vua vô cùng hoan hỷ phán:
– Này hiền hữu Khemaka, hãy gắng bắt lấy một hai thiên nga, rồi ta sẽ ban thưởng vinh hoa phú quý cho khanh.
Cùng với các lời này, vua ban bổng lộc cho gã và bảo gã ra về.
Khi trở lại hồ, người bẫy chim ngồi giấu mình trong cái thùng rỗng và ngắm các hoạt động của bầy thiên nga. Các vị Bồ-tát quả thật đã thoát ly tham dục. Vì thế bậc Đại Sĩ bắt đầu từ nơi đã hạ cánh xuống, bước đi ăn lúa một cách chừng mực từ tốn. Còn các chim kia đều bay nhảy kiếm mồi khắp nơi. Do vậy, người bẫy chim suy nghĩ: “Thiên nga này đã thoát ly tham dục: đây chính là con chim ta phải bắt lấy”.
Ngày hôm sau trước khi bầy thiên nga hạ cánh xuống hồ, gã đến một nơi gần đó giấu mình trong cái thùng rỗng, ngồi yên tại đó nhìn qua khe hở của thùng. Lúc ấy bậc Đại Sĩ được chín mươi ngàn Thiên nga hộ tống đáp xuống nơi ngài đã đến hôm trước, và đậu ngay tại chỗ ăn hôm qua, tiếp tục gặm lúa.
Người bẫy chim nhìn qua khe hở của thùng, chú ý ngay vẻ đẹp phi thường của chim này, và suy nghĩ: “Chim này lớn bằng cỗ xe, lông vàng ánh và cổ lại có ba khoang đỏ. Ba khoang này chạy từ cổ xuống dọc theo phần giữa bụng, trong khi ba khoang khác chạy xuống nổi rõ trên lưng, toàn thân tỏa sáng như một khối vàng ròng treo trên sợi dây làm bằng chỉ đỏ. Đây chắc hẳn là chim chúa và chính là con chim ta quyết bắt lấy”.
Còn chúa Thiên nga, sau khi ăn lúa trên đồng ruộng xong, lại vui đùa trong vũng nước và sau đó được đàn chim hộ tống trở về núi Cittakùta. Suốt sáu ngày liền, ngài kiếm mồi theo kiểu ấy.
Vào ngày thứ bảy, Khemakha kết một sợi dây lớn bằng lông ngựa đen và buộc dây thòng lọng trên cây sào, rồi vì biết chúa Thiên nga sẽ đáp xuống ngày mai vào chỗ cũ, gã đặt cây sào có buộc cái bẫy ở trên vào trong vũng nước.
Hôm sau, chúa Thiên nga hạ cánh xuống liền bị mắc chân vào bẫy, nó kẹp chặt chân chim như sợi dây sắt siết mạnh. Chim chúa muốn phá bẫy nên kéo lê nó đi và lấy hết sức đạp mạnh vào bẫy. Trước tiên chỗ da vàng ánh bị bầm dập, kế đó thịt màu đỏ thắm bị rách, rồi gân đứt lìa, cuối cùng đáng lẽ chân chim đã bị gãy, song nghĩ rằng thân thể tàn tật không xứng đáng với một chúa chim, nên chim không chống cự nữa. Trong khi các chỗ đau bắt đầu nhức nhối, chim suy nghĩ: “Nếu ta thốt tiếng kêu cứu quyến thuộc ta sẽ hoảng hốt và dù chưa ăn no đủ, chúng cũng sẽ chạy trốn, thì e còn đói lòng, chúng sẽ rơi xuống nước”.
Vì thế cố chịu đựng nỗi đau, chim đứng yên trong gọng kìm của chiếc bẫy, giả vờ ăn lúa. Nhưng khi đàn chim đã no nê rồi, và đang chơi đùa theo kiểu cách thiên nga, chim chúa liền thốt tiếng kêu bị nạn.
Bầy thiên nga nghe vậy bay bổng lên đi mất, như đã được tả trước đáy. Tướng quân Sumukha cũng xem xét mọi việc như đã kể, rồi bay đi tìm quanh quẩn mà không thấy bậc Đại Sĩ trong ba đàn thiên nga lớn kia, liền suy nghĩ: “Chắc hẳn đây là một chuyện khủng khiếp đã xảy ra với đức vua” và vị ấy liền quay về nói:
– Tâu Chúa thượng, xin đừng sợ, thần sẽ giải cứu Chúa thượng dù phải hy sinh tánh mạng của thần.
Rồi vừa đáp xuống vũng bùn, chim ấy an ủi vỗ về bậc Đại Sĩ. Bậc Đại Sĩ suy nghĩ: “Chín mươi ngàn thiên nga đã bỏ ta bay đi mất, chỉ còn chim này một mình trở lại đây. Ta không biết khi người bẫy chim đến, Sumukha cũng sẽ bỏ ta mà bay đi không”. Rồi để thử lòng chim kia, ngài dựa mình đầy máu vào chiếc sào buộc cái bẫy, và ngâm ba vần kệ:
1. Kìa đám hồng nga cất cánh bay,
Cả bầy hốt hoảng hãi kinh đầy,
Đi ngay, Sư-mục-kha vàng ánh,
Khanh muốn gì chăng ở chốn này?
2. Họ hàng ta đã bỏ rơi ta,
Bọn chúng đều cao chạy vút xa,
Đào tẩu ngay, không hề nghĩ ngợi,
Sao khanh đơn độc ở đây mà?
3. Thiên nga cao thượng, hãy bay về,
Tù tội làm sao có bạn bè?
Lúc được tự do, Sư-mục hỡi,
Bay đi, đừng bỏ dịp may kề!
Nghe vậy, Sumukha nghĩ thầm: “Thiên nga vương này không biết bản tính ta; ngài tưởng ta chỉ là thứ bạn nói lời xu nịnh. Ta sẽ tỏ cho ngài thấy ta yêu quý ngài biết bao”, rồi chim ấy ngâm bốn vần kệ:
4. Không, thần sẽ chẳng bỏ Nga vương,
Khi đến gần tai họa thảm thương,
Song ở lại đây, thần đã quyết
Bên ngài, dù sống chết không màng.
5. Không, thần sẽ bỏ Nga vương,
Khi đến gần tai họa thảm thương,
Chẳng dự vào hành vi hạ liệt
Với bầy chim nọ, chẳng theo gương.
6. Thần đồng tâm hiệp ý cùng ngài,
Đồng bạn vui chơi thuở thiếu thời,
Giữa đám quần thần, tâu Chúa thượng,
Nổi danh là thủ lãnh hùng oai.
7. Khi về với quyến thuộc thân bằng
Thần biết làm sao để nói năng,
Ví thử bỏ ngài cho số phận,
Vô tình bay bổng thật nhanh chân?
Không, thà chịu chết hơn là sống
Khi phải đóng vai hạ liệt thần.
Khi Sumukha đã ngâm bốn vần kệ như giọng sư tử rống, bậc Đại Sĩ lên tiếng nêu rõ đức độ của bạn:
8. Bản tính khanh, Sư-mục Tướng quân,
Vẫn thường an trú lý Như chân,
Không bao giờ bỏ rơi vua chúa,
Thân hữu, hãy tìm cách thoát thân.
9. Khi ta nhìn thấy mặt Hiền khanh,
Trong trí ta không khỏi hãi kinh,
Dù cảnh ngộ buồn, khanh cũng sẽ
Tìm đường giải cứu bạn thân mình.
Trong lúc đôi chim đang đàm luận như vậy, người bẫy chim đứng trên bờ hồ thấy bầy thiên nga bay rẽ ra thành ba đàn và không biết việc này có ý nghĩa gì, gã chợt nhìn đến nơi gã đã đặt bẫy và thấy Bồ-tát dựa mình vào cây gậy có cột thòng lọng. Vô cùng mừng rỡ, gã buộc thắt lưng lại cầm gậy vội vàng đến gần và đứng trước đôi chim, như ngọn lửa ở đầu chiếc vòng, đầu gã vươn cao trên đôi chim và gót chân chôn chặt dưới bùn.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng rõ vấn đề:
10. Đôi chim cao thượng đã trao nhau
Tư tưởng như vầy thật quý cao,
Hãy ngắm kẻ săn chim táo bạo
Tay cầm chiếc gậy, bước chân mau.
11. Thấy gã đến gần, Sư-mục-kha
Đứng lên ngay trước chúa Thiên nga,
Hiên ngang khích lệ quân vương ấy
Đầy nỗi lo trong bước sẩy sa.
12. “Nga vương cao quý, chớ kinh hoàng,
Kinh hãi chẳng là cách Đại vương,
Với lẽ công bằng, thần nỗ lực
Khẩn cầu với lý luận khôn ngoan
Bằng hành động hết lòng can đảm
Lần nữa Chúa công được thoát nàn.
Sumuakha an ủi bậc Đại Sĩ như vầy, rồi vừa đi đến bên người bẫy chim, vừa dùng tiếng người thật êm dịu hỏi:
– Này Hiền hữu, danh tánh của bạn là gì?
Y đáp:
– Này Chúa loài kim nga, ta có tên là Khemaka.
Sumukha đáp:
– Này Hiền hữu, đừng tưởng rằng chỉ một thiên nga tầm thường đã bị bắt vào bẫy lông ngựa của hiền hữu: đó chính là Chúa công Dhatarattha, lãnh tụ của chín mươi ngàn thiên nga đang bị mắc bẫy. Ngài thật là hiền trí, đức hạnh, và đang sẵn sàng hòa giải. Ta sẽ làm bất cứ việc gì mà ngài phải làm cho hiền hữu. Ta cũng có sắc vàng ánh và ta muốn hy sinh thân mạng mình vì ngài. Nếu hiền hữu muốn nhổ lông ngài, xin hãy nhổ lông ta; hoặc nếu hiền hữu muốn làm việc gì khác với da, thịt, gân, xương ngài, xin cứ lấy ra từ thân ta. Hơn nữa, giả sử hiền hữu muốn luyện ngài thành chim thuần, xin hãy luyện ta, bán ta lúc còn sống; hoặc nếu muốn kiếm tiền, xin hãy bán ta, chứ đừng giết ngài, vì ngài là bậc đầy đủ trí tuệ và đức hạnh như thế. Nếu hiền hữu muốn giết ngài, hiền hữu sẽ chẳng bao giờ thoát khỏi địa ngục hoặc đọa xứ khổ cảnh tương tự.
Sau khi đe dọa kẻ bẫy chim bằng nỗi kinh hoàng địa ngục, khiến y phải nghe lời khuyến dụ êm tai của mình, Sumukha lại đến gần đứng cạnh Bồ-tát, và an ủi ngài .
Gã bẫy chim nghe lời ấy, suy nghĩ: “Chỉ là một con chim như thế, nó lại có thể làm được những gì loài người không thể làm được. Vì loài người không chung thủy trong tình bằng hữu. Ôi đấy thật là một chim thần, đầy trí tuệ và biện tài”. Toàn thân gã rung động với nỗi hoan lạc kỳ diệu, tóc gã dựng đứng vì kinh ngạc, gã làm rơi chiếc gậy và chấp hai tay lên trước trán, như người kính lễ mặt trời, gã đứng đó tuyên dương công hạnh của Sumukha.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:
13. Người săn chim nọ đã nghe lời
Chim ấy nói ra với biện tài,
Tóc dựng đứng lên, tay chấp lại,
Tôn sùng kính lễ trước chim trời.
14. Chưa được nghe hay thấy trước giờ
Chim dùng tiếng nói của người ta,
Và bằng giọng lưỡi chim tuyên thuyết
Chân lý tối cao quả thật là.
15. Với ngươi; chim có họ hàng gì,
Khi cả đàn cùng chạy trốn đi,
Dù được tự do, ngươi ở lại
Bên chim bị bắt một mình kia?
Khi nghe người bẫy chim độc ác hỏi câu này, Sumukha suy nghĩ: “Kẻ ấy đã động lòng, ta muốn bày tỏ cho y thấy đức tính của ta để y hồi tâm thêm nữa” . Và chim ngâm kệ:
16. Hỡi cừu nhân của đám thiên nga,
Ngài chúa công, ta đại tướng mà,
Ta chẳng bỏ ngài cho số phận,
Bình an đào thoát một mình ta.
17. Đừng để Thiên nga chúa đại hùng
Nơi đây phải chết thật đơn thân,
Bên ngài, hạnh phúc ta tìm thấy,
Ta được ngài như đáng chúa công.
Khi nghe lời thuyết giáo dịu dàng về cách nhận lãnh trách nhiệm của chim kia, người bẫy chim tràn ngập hân hoan và lông tóc dựng đứng vì kinh ngạc, suy nghĩ: “Giả sử ta giết Thiên nga chúa đầy đủ đạo hạnh và mọi đức tính này, ta sẽ chẳng bao giờ thoát khỏi bốn khổ hình. Vậy cứ để vua Ba-la-nại muốn làm gì ta cũng mặc, ta sẽ trao chim mắc bẫy này như quà biếu không cho Sumukha và thả chim đi”.
Gã liền ngâm kệ:
18. Ngươi kính Điểu vương, cao quý thay,
Vì ngươi vẫn sống vời chim này,
Hãy bay về chốn ngươi chung sống,
Ta thả tự do hiền chúa ngay.
Nói vậy xong, người bẫy chim đầy thiện ý đến gần bậc Đại Sĩ uốn cây sào xuống, đặt chim chúa trên bùn, và lại nhấc sào ra khỏi thòng lọng. Sau đó gã kéo chim ra khỏi hồ, vừa đặt chim trên đám cỏ Kusa non, gã vừa nhẹ tay tháo chiếc bẫy đã kẹp chân chim. Lòng gã rạt rào tình thân mến bậc Đại Sĩ , và với từ tâm, gã lấy nước rửa sạch máu rồi chùi đi chùi lại nhiều lần.
Nhờ uy lực của từ tâm ấy, gân dính liền gân, thịt liền thịt, da liền da, chân chim lại lành như trước, chẳng còn gì khác với chân kia, và Bồ-tát ngồi đó hân hoan thư thái như xưa.
Sumukha thấy chim chúa hạnh phúc dường nào nhờ hành động của mình, nên vô cùng hoan hỷ nghĩ thầm: “Người này đã đem lại lợi ích cho ta, nhưng ta chưa làm gì cho y cả. Nếu y bắt ta cho các triều thần và giao ta cho họ, y sẽ được một số tiền lớn, và nếu y bắt ta cho chính y, y sẽ bán ra rồi thu lợi lớn. Ta muốn hỏi y đôi điều”. Như vậy do lòng mong ước làm ích lợi cho gã, chim ngâm kệ hỏi:
19. Nếu vì mục đích của riêng tây,
Ông đã bắt ta, đặt bẫy này,
Ta được tự do ông trả lại,
Lòng không lo lắng, nghĩ suy đầy.
20. Song bằng không, quả thật to gan,
Người bẫy chim tha mạng điểu vương
Mà chẳng vì ân vua phép nước,
Hiển nhiên trộm cướp chẳng gì hơn.
Người bẫy chim nghe vậy bảo:
– Ta không bắt chim cho ta đâu, ta được vua Samyama ở Ba-la-nại sai làm.
Rồi gã kể cho chim nghe toàn thể câu chuyện, từ lúc đầu hoàng hậu nằm mộng cho đến khi vua nghe có loài thiên nga đến, và phán: “Này hiền hữu Khemaka, hãy cố bắt một hai thiên nga, rồi trẫm sẽ ban đại phú quý cho khanh”, và cấp lương thực cho gã lên đường.
Khi nghe vậy, Sumukha suy nghĩ: “Người bẫy chim này không kể gì đến kế sinh nhai của riêng mình, khi thả chúng ta ra là gây khó khăn cho y, song nếu từ đây, ta trở về Cittakùta, thì trí tuệ siêu phàm của điểu vương Dhatarattha cũng như hành động vì tình bằng hữu của ta đều không được biểu lộ, người bẫy chim cũng sẽ không hưởng đại phú quý, nhà vua cũng không được an trú vào Ngũ giới và ước nguyện của hoàng hậu cũng không thành tựu”. Vì thế, chim ấy đáp:
– Này hiền hữu, nếu quả thật như vậy, thì ông không thể để cho chúng ta đi. Hãy đưa chúng ta đến yết kiến vua và ngài sẽ đối xử với chúng ta tùy thích.
Chim ấy lại ngâm vần kệ làm sáng tỏ vấn đề:
21. Ông là tôi tớ của quân vương,
Ý nguyện ngài, ông phải vẹn toàn,
Tùy thích vua Sa-mya định đoạt
Với ta, đối xử hợp tâm can.
Nghe vầy, người bẫy chim nói:
– Thưa các ngài, các vị không nên mong ước diện kiến đức vua. Vua chúa quả thật là những người vô cùng nguy hiểm. Họ sẽ luyện các vị thành chim thuần thuần tính hoặc giết đi.
Sumukha liền đáp:
– Này hiền hữu bẫy chim, đừng bận lòng vì chúng ta. Nhờ thuyết Pháp, ta đã khiến cho một người độc ác như ông phát khởi từ tâm. Vậy sao ta không làm việc này với vua? Vua chúa đủ trí tuệ để hiểu lời chân thiện. Hãy mau đưa ta đến yết kiến vua. Ông đừng đem chúng ta đi như đôi chim mắc bẫy, mà hãy đặt ta vào chiếc lồng hoa và đưa đi như vậy. Hãy làm chiếc lồng lớn phủ sen trắng cho điểu vương Dhatarattha và lồng nhỏ hơn phủ sen đỏ cho ta, đặt ngài phía trước, ta phía sau, hơi thấp hơn một chút, rồi khẩn cấp đưa ta đi yết kiến vua.
Khi nghe lời Sumukha, người bẫy chim suy nghĩ: “Sumukha đến yết kiến đức vua chắc hẳn mong ta được đại vinh hiển”. Lòng vô cùng hoan hỷ, gã làm đôi lồng bằng các cành liễu mềm phủ hoa sen, xong liền lên đường cùng với đôi chim theo cách miêu tả.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ để làm sáng tỏ vấn đề:
22. Người săn chim nắm cả hai tay
Trong lúc được nghe nói thế này,
Liền đặt vào lồng đôi ngỗng đỏ
Sắc da vàng ánh đẹp như vầy.
23. Bộ lông ngời sáng, chúa Thiên nga
Càng đẹp mắt trông, với Mục-kha,
Yên ổn trong lồng người đặt bẫy
Cầm lên cùng với ngỗng đi ra.
*
Ngay khi người bẫy chim lên đường cùng với đôi ngỗng, chim chúa Dhatarattha chợt nhớ đến vương hậu của mình là công chúa của Thiên nga vương Paka, do lòng tham ái chi phối, chim chúa than thở như vầy với Sumukha.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:
24. Nga vương vừa mới được mang ra,
Liền nói như vầy vời Mục-kha:
“Vương hậu diễm kiều đầy quý tướng
Bây giờ đang khổ não vì ta.
Nếu nàng nghe nói rằng ta chết,
Ta sợ đời nàng cũng phải sa.
25. Như cò hương khóc bạn tình lang,
Đơn độc bên bờ vắng đại dương,
Rực rỡ, Su-he (*) da óng ả
Sẽ còn thương tiếc mãi quân vương.
(*) Suhemà: tên hoàng hậu Thiên nga
*
Nghe vầy, Sumukha suy nghĩ: “Thiên nga này, dù luôn sẵn sàng khuyến giáo kẻ khác, lại bị tham dục chi phối, tất cả chỉ vì chim mái, nên cứ lảm nhảm như nước đang sôi sùng sục, hoặc chẳng khác tiếng bầy chim từ bến bờ vụt lên rồi sà xuống mổ lúa trên ruộng! Hay ta phải cố dùng trí tuệ nêu rõ cho ngài thấy những thói xấu của nữ giới và làm ngài tỉnh táo lại chăng?”, và chim này ngâm kệ:
26. Thiên nga vĩ đại, trí vô song,
Lãnh đạo anh minh của giống dòng,
Sao phải ưu phiền vì nữ giới,
Tỏ bày bao nhược điểm trong lòng.
27. Như gió mang đi đủ thứ mùi
Dù là thơm ngát hoặc tanh hôi,
Tham lam như trẻ thành mù quáng
Ăn thức còn tươi hoặc chín rồi.
28. Không xét suy chân chánh việc làm
Mê mờ, ngài chẳng thấy trên đàng
Việc gì cần tránh, gì làm được,
Trong lúc sa cơ, gặp hiểm nàn.
29. Hóa dại, ngài ca tụng má hồng
Có đầy vẻ diễm lệ say lòng;
Tầm thường, tuy vậy, là đa số,
Chẳng khác trà đình của túy ông.
30. Ưu phiền, bệnh tật với tai ương,
Như xích xiềng, gông, cực bạo tàn,
Ảo ảnh, dối gian và cạm bẫy
Tử thần cất kín tận tâm can.
Nữ nhân đều thế, ai tin chúng
Hạ liệt quả là nhất thế gian!
Lúc ấy chúa chim Dhatarattha đang say mê nữ giới, liền bảo:
– Hiền hữu không biết các đức tính của phái nữ, nhưng các bậc hiền trí biết rõ, nữ giới không đáng bị chỉ trích đâu.
Rồi ngài giải thích qua các vần kệ:
31. Bậc trí nhìn chân lý rõ rành,
Còn ai khiển trách, dám phê bình?
Nữ nhân sinh ở trong trần thế
Để hưởng đặc quyền với đại danh.
32. Nhi nữ sinh ra để cợt đùa,
Tình yêu lạc thú được ban cho,
Hạt mầm nảy nở trong nhi nữ,
Nguồn gốc đời ta được hộ phò,
Từ đó nam nhân bừng nhịp thở,
Khó lòng khinh thị đám quần thoa.
33. Riêng khanh, Sư-mục, có tinh thông
Cung cách dung nghi đám má hồng,
Xúc động hãi kinh, khanh có thấy
Trí này sáng suốt muộn màng không?
34. Khi một nam nhân gặp bất an,
Giữa tai biến, chịu đựng can cường,
Trong cơn khủng hoảng bao hiền trí
Cố sức cho ta được thoát nàn.
35. Quân vương muốn gặp bậc anh hùng
Để có người khuyên nhủ hộ phòng
Chống nỗi kinh hoàng do nghịch cảnh,
Giải bày thích đáng, cứu nguy vong.
36. Ta mong đầu bếp của hoàng gia
Đừng nướng thân ta đã xác xơ,
Như trái cây tre thường giết mẹ
Bộ lông vàng cũng giết đời ta.
37. Tự do, khanh chẳng muốn bay đi,
Tự nguyện giam cầm để cứu nguy,
Giờ phút hiểm nghèo, đừng nói nữa,
Hãy hoàn thành sứ mạng nam nhi.
Bằng cách tán tụng nữ giới, bậc Đại Sĩ đã làm cho Sumukha phải im lặng, nhưng khi thấy vị ấy buồn bực biết bao, giờ đây ngài muốn hòa giải với bạn, liền ngâm kệ này:
38. Gắng sức làm sao thật đúng thời,
Với công bằng biện hộ như lời,
Anh hùng hành động, xin hiền hữu
Đem lại cho ta cả cuộc đời.
Lúc ấy Sumukha suy nghĩ: “Ngài hết sức kinh hãi vì sợ chết; ngài không biết uy lực của ta. Sau khi yết kiến vua Ba-la-nại và đàm đạo đôi điều với vua, ta sẽ biết cách hành động. Lúc này ta muốn an ủi đại vương của ta”, và vị ấy ngâm vần kệ:
39. Nga vương cao quý, chờ kinh hoàng,
Kinh hãi chẳng là cách Đại vương,
Với lẽ công bằng, thần nỗ lực
Khẩn cầu vời lý luận khôn ngoan,
Bằng hành động hết lòng can đảm
Lần nữa chúa công được thoát nàn.
Trong lúc hai vị đang nói chuyện với nhau bằng tiếng chim như vậy, người bẫy chim chẳng hiểu lời nào chim nói cả, cứ mang đôi chim trên đôi gánh đi vào thành Ba-la-nại, gã được một đám đông theo sau vì tràn đầy thích thú kinh ngạc trước cảnh kỳ dị kia, họ đưa hai tay lên trời với dáng điệu nguyện cầu. Khi đến hoàng môn, người bẫy chim nhờ trình vua về việc gã đến chầu.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:
40. Người săn chim đến cổng hoàng gia,
Tiến lại gần cùng gánh nặng kia,
“Trình tấu Đại vương, thần yết kiến,
Thưa rằng đây chính hiệu hồng nga”.
Người canh cổng đi vào trình y đã đến. Vua vô cùng hoan hỷ, phán:
– Cho phép y vào chầu tức thì.
Rồi được một đám triều thần vây quanh, vua ngự lên ngai vàng có lọng trắng che trên đầu, thấy Khemaka bước lên bệ với gánh nặng trên vai, vừa khi nhìn đôi Thiên nga sắc vàng óng ả, vua phán:
– Ước nguyện của ta đã thành tựu.
Rồi vua truyền lệnh cho quần thần làm mọi việc xứng đáng đền đáp lại người bẫy chim.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:
41. Nhìn thấy đôi chim dáng Thánh thần,
Tràn đầy quý tướng đẹp vô ngần,
Vua Sa-mya ấy liền lên tiếng
Cùng với lời trao đám cận thần:
42. “Ban gã săn chim thức uống ăn,
Loại mềm, y phục đẹp oai hùng,
Vàng ròng cả khối màu hồng đỏ
Ban thật nhiều như dạ ước mong”.
*
Lòng vô cùng hân hoan, vua muốn bày tỏ nỗi thích thú của mình liền phán:
– Hãy đi trang điểm cho người bẫy chim rồi đưa y đến đây.
Thế là đám triều thần đưa gã ra khỏi cung, truyền tỉa râu tóc gã, sau khi y đã tắm rửa, xoa đầu thơm và mặc y phục lộng lẫy, họ đưa y vào yết kiến vua. Lúc đó vua ban cho y hai thôn làng hưởng lợi tức hàng năm một trăm ngàn đồng tiền, một cỗ xe do bầy ngựa thuần chủng kéo, một ngôi nhà rộng rãi đầy đủ tiện nghi cùng đại phú quý vinh hiển.
Khi nhận được đại danh vọng như vậy, người bẫy chim tâu trình để giải thích những việc y đã làm:
– Tâu Đại vương, thần không dâng Đại vương loại thiên nga bình thường đâu; đây chính là chúa tể của cả đàn chín mươi ngàn thiên nga, mệnh danh Dhatarattha và đây là đại tướng Sumukha.
Sau đó, vua hỏi:
– Này hiền hữu, làm sao khanh bắt được đôi chim ấy?
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ giải thích vấn đề:
43. Đại vương nhìn thấy kẻ đi săn,
Đẹp ý hân hoan, mới phán rằng:
“Hồ ấy, Khe-ma, đàn ngỗng đến
Hàng ngàn con để kiếm đồ ăn.
44. Giữa cả đàn chim một giống dòng,
Làm sao khanh cố sức thi công
Chọn ra chim chúa này kiều diễm,
Và bắt Thiên nga vẫn sống chăng?”
Người săn chim đáp lời vua:
45. Bảy ngày ròng rã, dạ âu lo
Thần đã hoài công đánh dấu hồ,
Tìm vết Thiên nga này tuyệt đẹp,
Ẩn mình trong một cái lu to.
46. Hôm nay thần thấy bãi chim ăn
Mà chính Thiên nga đã đến gần;
Lập tức chỗ kia thần đặt bẫy,
Thiên nga phút chốc bị sa chân.
Khi nghe vậy, vua suy nghĩ: “Kẻ này lúc đứng ở cổng chỉ kể chuyện chim chúa Dhatarattha bay đến, và bây giờ y cũng chỉ nói về chim này thôi. Thế việc này có ý nghĩa gì?”. Và vua ngâm vần kệ:
47. Thợ săn trình chỉ một chim thôi,
Nhưng trẫm thấy đầy đủ cả đôi,
Nhầm lẫn gì chăng, khanh đến tặng
Trẫm đây thêm một chú chim trời?
Lúc ấy người bẫy chim đáp:
– Tâu Đại vương, không có gì thay đổi trong ý định của thần, và thần cũng không muốn dâng Thiên nga thứ hai này cho ai cả. Hơn nữa, thần chỉ bắt được một con trong bầy thôi.
Rồi y nói tiếp để giải thích:
48. Thiên nga có những sọc vàng hồng
Tất cả đều vòng xuống dưới thân,
Đã bị bắt vào trong chiếc bẫy,
Thần dâng đây đúng lệnh Minh quân.
49. Chim tuyệt đẹp này được tự do
Vẫn ngồi bên cạnh bạn sa cơ,
Dùng lời lẽ thế nhân êm dịu
Cố sức làm cho bạn khỏi lo.
Theo cách này y tuyên dương đức hạnh của Sumukha:
– Ngay khi biết Thiên nga Dhatarattha bị bắt, chim ấy ở lại an ủi bạn và khi thần đến gần, nó liền bay đến gặp thần, đứng giữa không gian vừa đàm luận vui vẻ với thần bằng tiếng người, vừa nói rõ mọi đức hạnh của chim Dhatarattha. Và sau khi đã làm cho lòng thần dịu lại như vậy, nó liền đến đứng trước bạn mình lần nữa. Tâu Đại vương, khi nghe tài hùng biện của Sumukha, thần đã được cảm hóa và thả chim Dhatarattha. Do vậy, việc thả chim Dhatarattha khỏi bẫy và việc thần đến đây với đôi ngỗng này đều nhờ công Sumukha cả.
Khi nghe vậy, vua nóng lòng nghe Sumukha thuyết giáo, và trong khi người bẫy chim vẫn đang cung kính đảnh lễ vua, thì mặt trời vừa lặn, đèn đuốc được thắp sáng, một đám tướng lãnh và nhiều người khác tụ họp lại. Hoàng hậu Khemà được đoàn nữ nhạc hộ tống đến ngự bên phải vua; ngay lúc ấy vua muốn thuyết phục Sumukha cất tiếng nói, liền ngâm kệ:
50. Sao ngươi im tiếng, hỡi Thiên nga,
Ta đoán phải chăng bởi sợ ta,
Đến trước quân vương, ngươi diện kiến,
Mà sao chẳng thốt một lời ra?
Nghe vậy, Sumukha đáp để chứng tỏ mình không sợ gì cả:
51. Ta chẳng sợ gì, tấu Đại vương,
Khi trao lời giữa chốn triều đường,
Nếu cơ hội tốt nào đi đến,
Ta quyết sẽ không tránh luận bàn.
Nghe vậy, vua mong ước làm chim ấy nói nhiều hơn, liền ngâm kệ chê bai vị tướng chim:
52. Chẳng bầy xạ thủ mặc quân bào,
Chẳng mão, chẳng da bảo hộ nào,
Không có tùy tùng người hoặc ngựa,
Cũng không xa, pháo để theo hầu.
53. Chẳng thấy vàng đâu, chẳng thị thành,
Chẳng lâu đài tráng lệ quang vinh,
Tháp canh không có, phòng xâm phạm
Với lũy hào bao bọc bản doanh
Do tướng Mục-kha xây dựng vậy,
Không gì đáng sợ ở bên mình.
Khi vua dùng cách này hỏi chim tại sao không kinh hãi, Sumukha liền đáp kệ:
54. Chẳng ai bảo vệ, hoặc quân canh,
Chẳng muốn kim ngân hoặc thị thành,
Giữa chốn không gian, ta kiếm lối
Vân du khắp cả cõi trời xanh.
55. Nếu ngài an trú lý Như chân,
Ta ước mong tuyến thuyết, Đại vương,
Bài học giúp cho ngài lợi lạc,
Bằng lời tinh tế lại khôn ngoan.
56. Song nếu Đại vương chỉ dối gian,
Một người tâm tính thật tồi tàn,
Lời người đặt bẫy này hùng biện
Chẳng ích gì cầu khẩn Đại vương.
Nghe vậy, vua liền đáp:
– Tại sao ngươi dám bảo trẫm lừa dối tồi tàn? Thế trẫm đã làm gì chăng?
Sumukha liền đáp:
– Vậy Đại vương hãy nghe đây.
Và chim nói như sau:
57. Nghe lời các vị Bà-la-môn,
Ngài dựng hồ lạc lẫy lừng,
Và đã truyền rao khắp thập hướng:
An toàn đây chỗ của chim muông.
58. Trong chốn hồ này thật tịnh thanh,
Các dòng nước phẳng lặng, trong xanh,
Chim muông thấy thức ăn phong phú
Sống cuộc đời an ổn trọn lành.
59. Nghe tiếng đồn này vọng thật xa,
Chúng ta thăm cảnh đẹp hoàng gia,
Than ôi! Mắc bẫy, ta tìm thấy
Lời hứa Quân vương hóa phỉnh phờ.
60. Song lời dối trá khéo bao che
Hành động tham lam tội lỗi kia
Chẳng tái sinh thiên, người thế tục,
Thẳng đường địa ngục sẽ đưa về.
Như vậy ngay giữa đám triều thần, chim đã làm vua phải hổ thẹn. Sau đó vua phán:
– Này Sumukha, trẫm không bắt ngươi để giết và ăn thịt đâu; song nghe tiếng ngươi thông tuệ biết bao, nên trẫm muốn tận tai nghe ngươi hùng biện đấy thôi.
Rồi vua ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:
61. Mục-kha, trẫm chẳng phạm sai lầm,
Trẫm chẳng bắt chim bởi dục tâm,
Đây chính nguyên nhân gây việc ấy:
Danh ngươi thông tuệ, trí cao thâm.
62. “Nơi đây chắc hẳn chúng nêu ra
Chân thật, những lời ích lợi ta”,
Nên kẻ bẫy chim, ta hạ lệnh,
Đem ngươi về đó, hỡi Thiên nga.
Nghe thế , Sumukha đáp:
– Tâu Đại vương, ngài đã hành động sai lầm.
Và chim ngâm các vần kệ sau:
63. Ta chẳng thể tuyên thuyết thật chân,
Khi ta kinh hãi chết kề gần,
Cũng không hít thở hơi từ giã
Hấp hối phút giây của tử thần.
64. Ai muốn lấy chim để bẫy mồi,
Săn mồi bằng thú dữ tìm tòi,
Pháp sư đánh bẫy bằng bài giảng,
Kẻ ấy không sao khỏi đọa rồi.
65. Ai buông lời lẽ thật cao sang,
Dự định hành vi hạ liệt tràn,
Thì ở đời này, đời kế nữa,
Sa từ hạnh phúc đều đau buồn.
66. Đừng say sưa quá phút vinh quang,
Cũng chớ khổ đau lúc hiểm nàn,
Hãy sửa lỗi lầm thành tốt đẹp,
Hết lòng phấn đấu trước tai ương.
67. Bậc trí đến khi cuối cuộc đời,
Đã nhìn thấy đích tử thần rồi,
Sống trên trần đúng đường chân chánh,
Theo hướng đi lên đến cõi trời.
68. Nghe những lời này, giữ chánh chân,
Mau mau giải phóng, hỡi Minh quân,
Dha-ta-ra ấy là chim chúa
Tuyệt thế Thiên nga giữa cả đàn.
Nghe vậy, vua phán:
69. Mau hãy đi tìm nước rửa chân,
Đem vào đây cả chiếc kim đôn,
Hãy nhìn trẫm thả từ lồng ấy
Tối thượng Thiên nga ở cõi trần.
70. Cùng bậc anh hùng đại tướng quân,
Thật là tài giỏi lại tinh thông,
Dầu khi hoạn nạn hay vinh hiển
Đều dạy thiết thân với chúa công.
71. Bậc chân chánh ấy xứng uy danh
Theo bước chúa công suốt lộ trình,
Vì đã sẵn sàng trang bị đủ
Với vua chia xẻ tử cùng sinh.
Nghe lời vua phán, quan hầu đem bảo tọa đến mời đôi chim. Hai vị đậu ở đó rửa chân với nước hoa và xoa dầu thơm đã được lọc cả trăm lần.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ giải thích vấn đề:
72. Chim chúa ngự trên một chiếc ngai,
Tám chân ngời chói, đặc vàng thoi
Bên ngoài có lụa Kà-si phủ,
Quang cảnh này trông thật tuyệt vời.
73. Sư-mục ngồi bên cạnh Điểu vương,
Tướng công trung tín lại can cường,
Ở trên bảo tọa trùm da hổ,
Tất cả đều nguyên cả khối vàng.
74. Nhiều chúa Kà-si đựng chén vàng
Chọn đầy thực phẩm đủ cao lương,
Mang vào mời cặp Thiên nga ấy
Tặng vật cúng dâng của Đại vương.
*
Khi thực phẩm được đem thiết đãi hai vị như thế, vua Kàsi muốn đích thân đón tiếp hai vị, liền tự tay lấy chén vàng mời khách, hai vị thưởng thức mật ong, gạo rang và uống rượu đường. Sau đó Bậc Đại Sĩ nhận thấy cung cách vua thiết đãi thật ân cần như vậy liền đàm đạo thân mật với vua.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:
75. Nghĩ thầm? “Lễ vật thật cao sang
Chúa tể Kà-si đã cúng dường,
Thông hiểu triều nghi nên ngỗng chúa
Như vầy cất tiếng hỏi quân vương.
Thiên nga:
76. “Đại vương, ngọc thể có khang an,
Vạn sự Đại vương thảy vẹn toàn,
Quý quốc hẳn là đang thịnh vượng,
Được ngài cai trị thật công bằng?”
Quân vương:
77. Nga vương, trẫm vẫn được khang an,
Vạn sự trẫm đây được vẹn toàn,
Bổn quốc hiện giờ rất thịnh vượng,
Hưởng nền cai trị thật công bằng.
Thiên nga:
78. Ngài có triều thần thật chánh chân,
Biết khuyên nhủ chúa, chẳng sai lầm,
Nếu cần, họ sẵn sàng liều chết
Vì chánh nghĩa và danh chúa công?
Quân vương:
79. Trẫm có triều thần thật chánh chân,
Biết khuyên nhủ trẫm, chẳng sai lầm,
Nếu cần, họ sẵn sàng liều chết
Vì chánh nghĩa và danh quả nhân.
Thiên nga:
80. Phải chăng hoàng hậu cũng chung dòng,
Lời lẽ ôn nhu, biết phục tòng,
Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
Vâng chìu mọi Thánh ý Minh quân?
Quân vương.
81. Trẫm nay có chánh hậu chung dòng,
Lời lẽ ôn nhu, biết phục tòng,
Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
Vâng chìu mọi ý trẫm cầu mong.
Thiên nga:
82. Và nay quốc độ lạc an chăng,
Thoát được bao đàn áp bạo tàn,
Chẳng chịu độc tài, chuyên chế trị,
Hưởng nền cai trị thật công bằng?
Quân vương:
83. Ngày nay vương quốc trẫm bình an
Thoát được bao đàn áp bạo tàn,
Chẳng chịu độc tài, chuyên chế trị,
Hưởng nền cai trị thật công bằng.
Thiên nga:
84. Có xua ác đảng khỏi giang san
Đưa các thiện nhân đến vẻ vang,
Ngài có tránh xa điều chánh trực,
Hoặc theo đường lối bọn tà gian?
Quân vương:
85. Trẫm xua ác đảng khỏi giang san,
Đưa các thiện nhân đến vẻ vang,
Trẫm quyết tránh xa bao ác hạnh,
Và theo đường lối bậc hiền lương.
Thiên nga:
86. Đại vương có thấy quãng đời mình
Đã vụt trôi qua thật quá nhanh,
Hãy mãi say sưa vì vọng tưởng
Nhìn thấy đời sau chẳng hãi kinh?
Quân vương:
87. Thiên nga, trẫm thấy quãng đời mình
Đã vụt trôi qua thật quá nhanh,
Nên vẫn hành trì Mười giới hạnh
Chẳng hề kinh hãi cõi lai sinh.
88. Bố thí, ăn năn, trí chánh chân,
Ôn nhu, hiền dịu, chuộng bình an,
Từ bi, nhẫn nhục, đầy thân ái,
Đạo đức không ô nhiễm bụi trần.
89. Những điều đức hạnh tận tâm can
Vững chắc vươn lên, thấy rõ ràng,
Từ đó nảy sinh nguồn hạnh phúc,
Hân hoan cho trẫm quý muôn vàn.
90. Song dù Sư-mục chẳng hề hay
Tội ác trẫm đâu có phạm này,
Vẫn cứ vô tình tuôn xối xả
Những lời thô lỗ, giọng nồng cay.
91. Ta chẳng biết chi các việc này,
Chim kia đổ trách nhiệm lầm đây,
Nói năng thô lỗ. Nên ta nghĩ:
Trí tuệ yếu non đã hiển bày.
Khi nghe vậy, Sumukha suy nghĩ: “Vị vua đức hạnh này đang phẫn nộ vì ta đã khiển trách ngài. Rồi ta sẽ xin ngài tha thứ’’. Rồi chim ấy ngâm kệ:
92. Thần đã lỗi lầm với Đại vương,
Nói năng bừa bãi thật điên cuồng,
Song khi chim chúa này lâm nạn,
Lòng của hạ thần tựa nát tan.
93. Như đất chứa đầy mọi chúng sinh,
Như người cha đối với con mình,
Đại vương, xin rộng lòng tha thứ
Lỗi chúng thần đây phạm đã đành.
Lúc ấy, vua liền nâng chim lên, ôm vào lòng và đặt chim trên một kim đôn, vua chấp nhận lời thú nhận lỗi lầm kia và phán:
94. Trẫm cám ơn Sư-mục tướng quân,
Khanh không hề dấu tính chơn thuần,
Khanh làm nhụt chí ta cương quyết
Trẫm thấy khanh cương trực, thật chân.
Cùng với những lời này, vua hết sức hoan hỷ về bài thuyết Pháp của Bậc Đại Sĩ và lời lẽ cương trực của Sumukha, liền suy nghĩ: “Khi ta hoan hỷ, ta phải hành động để bày tỏ mềm hoan hỷ của ta”.
Rồi muốn nhường cảnh vinh hiển của mình cho đôi chim, vua phán:
95. Những gì châu báu với kim, ngân,
Bảo vật, ngọc trai, hoặc ngọc hồng
Ở tại Kà-si thành của trẫm,
Trữ trong kho báu chốn hoàng cung.
96. Đồng, sắt, vỏ sò, với ngọc trai,
Bảo châu vô số, đám ngà voi
Gỗ chiên-đàn quý màu vàng ánh,
Y phục cao sang, da hổ, nai,
Tất cả kho tàng, quyền trị nước,
Trẫm xin ban tặng hết cho ngài.
Cùng với những lời trên, vua làm vinh dự đôi chim bằng chiếc lọng trắng vào trao vương quốc cho đôi chim.
Sau đó Bậc Đại Sĩ ngâm kệ đàm đạo với vua:
97. Ngài muốn làm vinh dự chúng thần,
Xin hãy vui lòng, tấu Đại quân,
Làm Đạo sư cho thần học hỏi
Mười điều vương pháp để an dân.
98. Rồi nếu chúng thần được Đại vương
Chuẩn phê đồng ý, lạc an tràn,
Chúng thần xin phép ngài từ biệt,
Và trở về thăm viếng họ hàng.
Vua cho phép đôi chim ra đi, và trong khi Bồ-tát còn đang thuyết Pháp, mặt trời đã mọc.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ giải thích vấn đề:
99. Kà-si chúa tể, suốt đêm thâu,
Chìm đắm trong tư tưởng thật sâu,
Sau đó vua bằng lòng chấp thuận
Theo lời vương điểu ấy yêu cầu.
*
Khi đã được vua cho phép từ giã, Bồ-tát lại nói:
– Xin Đại vương tỉnh giác và trị nước chân chánh.
Và ngài an trú vua vào Ngũ giới.
Vua ban hai vị bắp rang với mật ong và nước đường trong dĩa vàng, khi hai vị đã dùng bữa ăn xong, vua cung kính dâng hai vị các hoa thơm và nhiều lễ vật khác, rồi tự tay nâng Bồ-tát lên trong chiếc lồng vàng, và hoàng hậu Khemà nâng Sumukha lên. Khi mặt trời mới mọc vua và hoàng hậu mở cửa sổ và nói:
– Xin các Tôn giả hãy ra đi.
Rồi hai vị tháo lồng thả đôi chim ra.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ giải thích vấn đề:
100. Cũng vừa lúc ấy mặt trời lên,
Ngày tỏa sáng dần mất bóng đêm,
Phút chốc đôi chim vừa khuất bóng
Trong vùng sâu thẳm của thanh thiên.
*
Bậc Đại Sĩ là một trong đôi chim bay ra khỏi lồng vàng đứng trên không và bảo:
– Xin Đại vương chớ lo âu, phải luôn tỉnh giáo và an trú vào giáo Pháp của ta.
Ngài an ủi vua như vậy rồi cùng Sumukha bay về thẳng núi Citakùta. Chín mươi ngàn thiên nga kia cất cánh bay ra khỏi Kim Động tụ tập trên cao nguyên và khi thấy hai vị đến, chúng ra nghênh tiếp và hộ tống hai vị về nhà. Như vậy hai vị được cả đoàn quyến thuộc đưa về tận cao nguyên Cittakùta.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:
101. Nhìn chủ tướng chim được vạn an
Trở về từ cõi chết nhân gian.,
Đàn chim vỗ cánh kêu ầm ĩ
Chào đón chúa chim lại họp đàn.
102. Vây quanh chúa tể chúng tôn sùng,
Tin tưởng, giờ đây đám ngỗng hồng
Kính cẩn nghiêng mình chào chúa tể,
Hân hoan vì chúa được an thân.
*
Trong khi hộ tống chúa chim, bầy thiên nga hỏi ngài:
– Tâu Đại vương, làm thế nào ngài thoát nạn?
Bậc Đại Sĩ kể cho chúng nghe ngài thoát nạn nhờ Sumukha giúp đỡ, và các hành động của vua Samyama cùng triều thần.
Nghe vậy, bầy thiên nga hân hoan ca ngợi các vị:
– Vạn tuế Đại tướng Sumukha của chúng ta, vạn tuế Đại vương và người bẫy chim. Cầu mong các vị được hạnh phúc và thoát khỏi khổ đau.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ và sáng tỏ vấn đề:
103. Ai có từ tâm ắt đạt thành .
Việc gì các vị ấy thi hành,
Như Thiên nga trở về bằng hữu
Lần nữa đôi chim được trọn lành.
Chuyện này đã được kể đầy đủ trong số 533. Tiền thân Cullahamsa.
*
Đến đây, bậc Đạo Sư chấm dứt Pháp thoại và nhận diện Tiền thân:
– Vào thời ấy, người bẫy chim là Channa (Xa-nặc), Hoàng hậu Khemà là Tỷ-kheo-ni Khemà (Thái Hòa), vua là Sàriputta (Xá-lợi-phất), đoàn tùy tùng của vua là các đệ tử Phật, Sumukha là Ànanda (A-nan) và Chúa Thiên nga chính là Ta.
-ooOoo-
535. Chuyện thực phẩm Thiên giới (Tiền thân Sudhàbhojana)
Ta không phải kẻ bán buôn rong…,
Chuyện này được bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Jetavana (Kỳ Viên) liên hệ đến một Tỷ-kheo có tâm bố thí hào phóng.
Tương truyền vị ấy là một người thuộc dòng dõi quý tộc ở tại Sàvathi (Xá-vệ) sau khi nghe bậc Đạo Sư thuyết Pháp, đã xin quy y và sống đời tu hành. Khi đã viên mãn mọi giới đức và đầy đủ các đạo hạnh của người xuất gia có lòng tràn ngập thân ái đối với các bạn đồng tu, mỗi ngày ba lần ông nhiệt tâm phụng sự Phật, Pháp, Tăng và tỏ ra gương mẫu trong đức hạnh và chuyên cần bố thí.
Muốn thành tựu giới bổn về tình thân ái, bất cứ vật gì vị ấy nhận được, ông đều bố thí cả, bao lâu còn người nhận, cho đến khi ông chẳng còn gì để ăn. Tính hào phóng và tình thân ái của ông được đồn đại khắp Tăng chúng. Vì vậy một hôm, câu chuyện bắt đầu trong Chánh pháp đường, về một Tỷ-kheo có tâm hào phóng và chuyện bố thí đến độ dù ông chỉ nhận được nước uống vừa đủ trong lòng bàn tay, ông cũng đem cho các bạn đồng tu với tâm ly tham. Ý nguyện của vị ấy chẳng khác gì một vị Bồ-tát.
Với thiên nhĩ thông, bậc Đạo Sư nghe được chuyện Tăng chúng đang nói, liền bước ra khỏi Hương phòng của Ngài, đến gần và hỏi Tăng chúng đang bàn luận gì. Khi các vị đáp chuyện như vầy như vầy Ngài bảo:
– Này các Tỷ-kheo, ngày xưa, vị Tỷ-kheo này không hề hào phóng, trái lại ông keo kiệt đến độ không thể cho một giọt dầu trên ngọn cỏ. Vì vậy, ta đã giáo hóa ông khiến ông biết hy sinh bản thân và bằng cách tán thán các công đức bố thí, Ta đã an trú ông vào hạnh bố thí. Cho nên khi nhận được nước chỉ vừa đủ trong lòng bàn tay, ông cũng nói: “Ta không muốn uống một giọt nào mà không cho bớt đôi chút”. Rồi ông nhận được một điều ước ta ban cho, và kết quả việc bố thí kia là ông có tâm hào phóng và chuyên bố thí.
Cùng với những lời này, Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, có một gia chủ giàu tiền đến tám trăm triệu đồng và vua ban cho ông chức giữ Ngân khố. Được vua ban vinh hiển như thế và được dân chúng vô cùng trọng vọng, một hôm ông suy xét về cảnh thịnh vượng của đời mình, liền suy nghĩ: “Cảnh vinh quang này ta đạt được không phải do lười biếng hay các ác nghiệp trong đời trước, mà là do thành tựu các công đức; vậy ta cần phải lo liệu cuộc sống tương lai thật vững chắc”.
Vì thế ông đến yết kiến vua và thưa;
– Tâu Đại vương, trong nhà hạ thần có kho báu trị giá tám trăm triệu đồng, xin Đại vương nhận lấy từ hạ thần.
Vua đáp:
Trẫm không cần tài sản của khanh, Trẫm đã có nhiều tài sản rồi, vậy cứ lấy của cải làm việc gì tùy thích.
Ông thưa:
– Tâu Đại vương, hạ thần có thể đem tiền để bố thí chăng?
Vua phán:
– Cứ làm như khanh muốn.
Ông liền ra lệnh xây sáu bố thí đường mỗi ngôi ở mỗi cổng thành, một ngôi ở giữa thành phố, và một ngôi ở cổng nhà mình, rồi mỗi ngày đem chi tiêu sáu trăm ngàn đồng tiền, ông bắt đầu làm đại sự bố thí; trong lúc sinh thời, ông chuyên bố thí và dạy bảo các con:
– Hãy cố chăm lo để đừng gián đoạn truyền thống bố thí này của cha.
Đến lúc mạng chung, ông tái sinh làm Sakka Thiên chủ (Đế Thích).
Con trai ông cũng bố thí như vậy và tái sinh làm Canda (Nguyệt thần), con của Canda là Suriya (Nhật thần), con của Suriya là Màtali (Quản xa thần) và con của Màtali là Pañcasikha (Ngũ kế Nhạc thần).
Bấy giờ con trai của Pañcasikha, cháu thứ sáu trong dòng ấy, là người Thủ kho tên là Maccharikosiya (Triệu phú keo kiệt) vẫn còn cả tám trăm triệu nhưng ông nghĩ: “Tổ tiên ta thật khờ dại. Các vị ấy đã ném bỏ tài sản do công khó góp nhặt, còn ta sẽ giữ gìn kho báu. Ta quyết không cho ma nào một xu nhỏ”.
Ông liền phá hủy và đốt rụi các bố thí đường rồi trở thành kẻ keo kiệt kinh niên. Vì thế đám hành khất tụ tập trước cổng nhà ông chìa tay ra và kêu lớn:
– Thưa Đại quan thủ kho, xin ngài đừng bỏ tục cổ truyền của tổ tiên, mà ngài hãy bố thí.
Khi nghe vậy, dân chúng khiển trách ông, và bảo:
– Vị triệu phú biển lận này đã bỏ truyền thống gia đình.
Ông hổ thẹn, bảo canh giữ để ngăn đám hành khất đứng ở cổng nhà ông, vì thế họ vô cùng khốn đốn cơ cực, không còn để mắt vào cổng ấy nữa. Từ đó, ông tiếp tục cuốn tiền lại để cất, chứ không hưởng thụ phần mình cũng không chia với vợ con.
Ông sống bằng cơm gạo đỏ, dọn với tương chua, mặc áo quần vải thô, chỉ gồm toàn sợi lấy từ rễ và thân cây dâu, che đầu bằng dù lá đi chiếc xe cũ ọp ẹp do đôi bò tồi tàn kéo. Như vậy tất cả tiền bạc của con người độc ác này chẳng khác gì con chó nhặt được quả dừa.
Một hôm, khi sắp vào chầu vua, ông nghĩ nên đưa vị Phó thủ kho đi cùng, và khi đến gần nhà vị kia, ông thấy vị Phó thủ kho đang ngồi giữa vợ con ăn cháo gạo với đường mịn, nấu với bơ tươi. Khi thấy Maccharikosiya, vị ấy đứng dậy bảo:
– Xin mời Đại quan thủ kho vào ngồi trên tọa sàng này và ăn cháo gạo cùng tiểu đệ.
Vừa trông thấy cháo gạo, miệng ông đã chảy nước miếng và muốn ăn ngay, nhưng ông chợt suy nghĩ: “Nếu ta ăn một chút cháo, thì khi vị Phó thủ kho đến nhà, ta phải đáp lại lòng hiếu khách của y và như vậy là sẽ tiêu phí tiền của. Ta những muốn ăn đâu”.
Sau đó bị nài ép mãi, ông vẫn từ chối, bảo:
– Ta đã ăn rồi, ta no lắm.
Song suốt buổi vị Phó thủ kho ăn cháo, ông cứ ngồi nhìn và chảy nước miếng, rồi khi xong bữa, ông cùng vị ấy vào cung.
Khi về nhà, lòng ông tràn ngập nỗi thèm ăn cháo gạo, nhưng lại nghĩ: “Nếu ta nói ta muốn ăn cháo gạo, nhiều người cũng sẽ muốn ăn theo và sẽ tiêu phí một số gạo giã trắng. Thôi ta chẳng muốn nói một lời với ai”.
Vì thế suốt đêm ngày, ông cứ miên man suy nghĩ không gì khác ngoài cháo, nhưng vì sợ tốn tiền nên không nói với ai mà chỉ giữ cơn thèm trong lòng. Tuy thế không thể nào chịu đựng mãi được chuyện ấy, ông dần trở nên xanh xao, và do sợ tiêu phí của cải, ông không nói thèm ăn với ai và dần dần ông kiệt sức phải nằm liệt giường.
Lúc ấy, vợ ông đến thăm, lấy tay vỗ vào lưng ông và hỏi:
– Phu quân có bệnh chăng?
Ông kêu to:
– Bà bệnh ấy chứ, ta khỏe lắm mà!
– Phu quân xanh xao lắm. Phu quân có điều gì lo nghĩ? Đức vua không đẹp ý hay các con đối xử bất kính với chàng? Hay chàng thèm muốn vật gì chăng?
– Phải, ta đang thèm muốn.
– Phu quân nói cho thiếp biết với.
– Bà có giữ kín miệng được chăng?
– Được lắm, thiếp sẽ giữ kín mọi điều thèm muốn cần được giữ kín.
Nhưng dù vậy, do sợ tiêu phí của cải, ông không có can đảm nói với vợ, sau bị bà thúc giục mãi, ông đáp:
– Này bà, hôm kia ta thấy vị Phó thủ kho ăn cháo gạo nấu với đường mịn, bơ tươi và mật ong, từ đấy, ta cứ thèm ăn loại cháo như vậy.
– Thiếp sẽ nấu cháo gạo cho cả dân thành phố Ba-la-nại ăn mà.
Lúc ấy, ông cảm thấy như bị ai đánh cái gậy vào đầu, ông nổi cơn thịnh nộ với vợ và nói:
– Ta dư biết bà giàu có lắm. Nếu ở nhà bà thì bà tha hồ nấu cháo và cho cả thành phố ăn.
– Được thiếp sẽ nấu vừa đủ cho dân cả một khu phố ăn thôi.
– Bà có liên hệ gì với chúng cơ chứ? Mặc chúng ăn thứ gì chúng có.
– Thế thì thiếp sẽ nấu đủ cho bảy gia đình chọn rải rác đâu đó.
– Chúng là gì của bà vậy?
– Thế thì thiếp chỉ nấu cho gia nhân trong nhà này thôi.
– Chúng là gì của bà vậy?
– Thế thì thiếp chỉ nấu cho gia đình ta thôi.
– Chúng là gì của bà vậy?
– Thế thì thiếp chỉ nấu cho phu quân và thiếp thôi.
– Ôi kìa, bà là ai chớ? Trường hợp bà cũng không được đâu.
– Vậy thiếp chỉ nấu cho một mình phu quân thôi.
– Xin bà đừng nấu cho ta. Nếu bà nấu trong nhà, nhiều người sẽ thấy. Chỉ cần cho ta một đấu gạo giã trắng, một góc tư lít sữa, một cân đường, một hũ mật ong, và một cái nồi, ta sẽ đi vào rừng nấu cháo và ăn.
Bà vợ làm như vậy, bảo một gia nô đem tất cả những thứ ấy và ông ra lệnh gia nô đến đứng ở nơi kia. Sau đó bảo gia nô đi khuất, một mình ông trùm kín người giả dạng đi đến đó và cạnh bờ sông dưới một góc cây, ông bảo làm cái lò, đem củi và nước cho ông rồi dặn kẻ gia nô:
– Đi ra đứng ở đường kia, nếu chú thấy ai, hãy ra hiệu cho ta, và khi ta gọi, chú hãy đến.
Bảo tên gia nô đi xong, ông nhóm lửa và nấu cháo. Lúc ấy Sakka Thiên chủ đang chiêm ngưỡng kinh thành tráng lệ của chư Thiên, rộng mười ngàn dặm, con đường lát vàng dài sáu mươi dặm, Tối thắng điện Vejayanta cao một ngàn dặm, Thiện pháp đường bao quát năm trăm dặm, chiếc ngai hoàng thạch rộng sáu mươi dặm, chiếc lọng trắng với cành hoa vàng chu vi năm dặm, và bản thân ngài được một đoàn tùy tùng thật huy hoàng gồm hai mươi lăm triệu Thiên nữ.
Vừa chiêm ngưỡng mọi cảnh vinh quang này, ngài vừa suy nghĩ: “Ta đã có khả năng làm gì để đạt đến vinh quang này?”. Rồi với thiên nhãn, ngài thấy hạnh bố thí mà ngài đã tạo nên trong thời làm quan Đại thủ kho tại Ba-la-nại, và ngài suy nghĩ: “Thế nay các con cháu ta tái sinh cõi nào?”, vừa xem xét vấn đề ấy ngài vừa nói: “Con trai Canda của ta tái sinh làm Thiên tử, và con trai nó là Suriya”. Khi để ý đến việc tái sinh của tất cả con cháu, ngài kêu lên: “Thế số phận con trai của Pañcasikha thì sao? Quan sát kỹ, ngài thấy truyền thống dòng dõi đã bị phá hủy, và ý tưởng này chợt đến với ngài: “Tên hà tiện độc ác này chẳng hưởng tài sản cũng chẳng cho ai cả. Truyền thống gia tộc đã bị nó phá hoại. Khi chết, nó sẽ tái sinh địa ngục. Bằng cách thuyết giáo cho nó và tái lập truyền thống gia đình, ta sẽ chỉ cho nó con đường tái sinh thiên giới”.
Vì thế ngài triệu tập Canda và các vị kia rồi bảo:
– Này, ta sẽ giáng trần: truyền thống gia đình ta đã bị Maccharikosiya phá hủy, các bố thí đường đã bị đốt sạch và nó chẳng hưởng thụ tài sản cũng chẳng cho ai cả, song giờ đây nó đang thèm ăn cháo gạo và suy nghĩ: “Nếu nấu cháo trong nhà, thì cháo phải được đem cho người khác”, nên nó vào rừng và nấu cháo một mình. Chúng ta sẽ đi giáo hóa nó và dạy nó hiểu kết quả của bố thí. Song nếu tất cả chúng ta đồng thời xin nó cho cháo gạo, nó sẽ ngã lăn đùng ra chết tại chỗ. Vậy ta sẽ đi trước và khi ta đã xin nó cháo rồi ngồi xuống, các khanh hãy đến, lần lượt từng vị giả dạng Bà-la-môn xin cháo.
Nói vậy xong, chính ngài giả dạng một Bà-la-môn đến gần người triệu phú và kêu to:
– Này, đường nào đi đến Ba-la-nại?
Maccharikosiya đáp:
– Lão có mất trí không đấy? Lão không biết cả con đường đến Ba-la-nại ư? Tại sao lão đến đường này? Hãy từ đây mà đi ra.
Sakka giả vờ không nghe ông nói, cứ tiến gần ông, hỏi ông nói gì. Thế rồi ông hét lên:
– Này, Bà-la-môn điếc đặc kia, ta bảo tại sao lão đến đường này? Hãy đi ra đường kia.
Sakka đáp lại:
– Tại sao ông hét to thế? Ta thấy đây có khói và lửa, cháo gạo lại đang sôi, chắc là dịp thiết đãi các Bà-la-môn đấy mà. Khi các Bà-la-môn được mời ăn, ta cũng muốn hưởng đôi chút. Tại sao ông xua ta đi?
– Ở đây chẳng đãi tiệc Bà-la-môn nào cả. Lão hãy cút đi.
– Thế tại sao ông nổi giận như vậy? Khi ông dùng bữa, tôi muốn xin một chút.
Ông đáp:
– Ta chẳng muốn cho lão dù chỉ một miếng cháo. Món ăn hiếm hoi này chỉ vừa đủ nuôi sống ta thôi, và đây cũng do ta đi xin. Lão hãy đi kiếm đồ ăn nơi khác.
Ông nói vậy là muốn nhắc đến việc đã xin vợ phần gạo ấy. Và ông ngâm kệ:
1. Ta không phải kẻ bán buôn rong,
Không của cho vay hoặc biếu không,
Chút cháo thí này rất khó kiếm,
Chẳng vừa dọn đủ cả ta, ông!
Nghe vậy, Sakka Thiên chủ đáp:
– Ta cũng sẽ lấy giọng ngọt như mật ngâm kệ đáp lễ ông đây, hãy lắng nghe ta.
Rồi ông cố ngăn ngài và bảo:
– Ta không muốn nghe kệ của lão.
Thiên chủ Sakka vẫn ngâm đôi vần kệ:
2. Của ít cũng nên bố thí mà,
Của vừa cũng phải lấy cho vừa,
Của nhiều càng phải cho nhiều nữa,
Không thí, vấn đề chẳng đặt ra.
3. Ko-si, ta nói một đôi lời:
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một mình ăn thực phẩm,
Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.
Khi nghe lời ngài, ông đáp:
– Này Bà-la-môn, đây là một lời nói nhân từ của lão, thôi để khi cháo chín, lão sẽ được ăn một chút. Hãy ngồi xuống đây.
Sakka ngồi xuống một bên. Khi ngài vừa ngồi, Canda theo cách này đến gần và bắt đầu nói chuyện như thế, dù Maccharikosiya cố ngăn chặn, vị này vẫn ngâm đôi vần kệ:
4. Nào có ích chi lễ tế thần,
Hoài công ước vọng ở trong tâm,
Nếu ông ăn cháo và không muốn
Cho thực khách đây một ít phần.
5. Ko-si, ta nói một đôi lời:
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một mình ăn thực phẩm
Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.
Khi nghe lời vị ấy, kẻ hà tiện miễn cưỡng bảo:
– Thôi được, hãy ngồi xuống, ông cũng sẽ được một ít cháo.
Vị ấy liền đến ngồi cạnh Sakka. Sau đó Suriya cũng theo cách trên đến gần và bắt đầu nói chuyện theo cách trên, mặc dù kẻ hà tiện cố ngăn chặn, vị ấy vẫn ngâm đôi vần kệ:
6. Chân thật ông dâng lễ tế thần,
Chẳng hoài công ước nguyện trong tâm,
Nếu ông không một mình ăn cháo,
Mà biếu khách đây một ít phần.
7. Ko-si, ta nói một đôi lời:
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một mình ăn thực phẩm,
Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.
Nghe lời này, kẻ hà tiện lại càng thêm miễn cưỡng bảo:
– Thôi được, cứ ngồi xuống và lão sẽ được một ít cháo.
Suriya đến ngồi cạnh Canda. Sau đó Màtali theo cách trên cũng đến gần và bắt đầu nói chuyện, mặc dù kẻ hà tiện cố ngăn chặn, vị này vẫn ngâm hai vần kệ:
8. Hồ, lạch Ga-yà chảy xiết dòng,
Ai đem dâng lễ cúng chư thần,
Đến Tim-ba hoặc Do-na ấy
Sóng nước trôi nhanh lớp chập chùng,
Hưởng kết quả do dâng lễ vật,
Đạt thành ước nguyện ở trong lòng,
Nếu không ngồi một mình ăn cháo,
Mà biếu khách đây một ít phần.
9. Ko-si, ta nói một đôi lời:
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một mình ăn thực phẩm,
Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.
Nghe lời này, ông bối rối như thể có đỉnh núi đè nặng lên, ông miễn cưỡng nói:
– Thôi được, cứ ngồi xuống, lão sẽ được một ít.
Màtali đến ngồi cạnh Suriya. Sau đó Pañcasikha cũng theo cách trên đến gần và bắt đầu nói chuyện, dù kẻ hà tiện cố ngăn chặn, vị này vẫn ngâm đôi vần kệ:
10. Như cá tham ăn vội nuốt mau
Miếng mồi buộc ở chiếc cần câu,
Người ngồi riêng biệt và ăn cháo
Khi có khách này kế cận sao?
11. Ko-si, ta nói một đôi lời:
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một mình ăn thực phẩm,
Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.
Maccharikosiya nghe vậy, gắng gượng một cách mệt nhọc, rên to lên:
– Thôi được, cứ ngồi xuống, lão sẽ được ăn một chút.
Pañcasikha liền đến ngồi cạnh Màtali. Khi năm vị Bà-la-môn đều an tọa, cháo cũng đã chín. Kosiya nhấc cháo ra khỏi lò, bảo các vị Bà-la-môn đem lá tới. Vẫn ngồi tại chỗ, năm vị vươn tay ra đưa các ngọn lá cây leo hái từ Tuyết Sơn. Kosiya thấy vậy bảo:
– Ta không thể cho cháo vào các ngọn lá to như thế của các vị đâu. Hãy lấy lá cây keo hay các cây tương tự.
Các vị đi lượm lá ấy, mỗi lá lớn bằng cái mộc của chiến sĩ. Ông lấy muỗng múc một ít cháo cho tất cả các vị. Vào lúc ông đã múc xong cho vị cuối cùng, vẫn còn nhiều cháo trong nồi. Sau khi mời các vị Bà-la-môn xong, chính ông ngồi xuống cầm cái nồi.
Ngay lúc ấy, Pañcasikha đứng lên, biến hình thành con chó đến đứng trước các vị và tiểu tiện. Mỗi vị Bà-la-môn đều lấy một ngọn lá che cháo. Một giọt nước tiểu của chó rơi vào lưng bàn tay của Kosiya. Các vị Bà-la-môn lấy nước trong bình ra trộn với cháo giả vờ ăn. Kosiya nói:
– Cho ta một chút nước, rửa tay xong ta mới ăn cháo.
Các vị bảo:
– Hãy đi kiếm nước cho mình và rửa tay.
– Ta đã cho các vị cháo thì nay hãy cho ta một chút nước.
– Chúng ta không làm việc trao đổi thí vật.
– Thế thì giữ dùm ta nồi cháo, khi rửa tay xong, ta sẽ trở về.
Và ông xuống bờ sông. Lúc ấy con chó tiểu tiện đầy nồi. Kosiya thấy chó tiểu tiện liền lấy gậy lớn và đến gần hăm dọa nó. Bấy giờ con chó biến thành con ngựa thuần chủng và trong khi nó đuổi theo ông, nó biến hóa đủ màu. Khi thì chó màu đen, khi thì trắng, khi thì vàng, khi thì lốm đốm. Dáng nó khi thì cao, khi thì thấp. Nó hiện ra đủ hình dáng khác nhau như vậy và rượt theo Kosiya khiến ông sợ chết khiếp, chạy đến gần các Bà-la-môn trong khi các vị bay lên đứng trên không. Khi thấy thần lực các vị, ông ngâm kệ:
12. Các ngài Thánh giả Bà-la-môn
Đang đứng trên cao giữa cõi không,
Con chó các ngài sao lạ vậy
Thay hình đổi dạng cả ngàn lần,
Dầu là chỉ một mình con chó,
Các vị là ai, nói thật chân.
Nghe vậy, Sakka Thiên chủ đáp:
13. Kìa! Can-da với Su-ri-ya,
Và nọ, Mà-ta-li quản xa,
Thiên chủ là ta đây, Đế Thích
Ở trên Thiên giới Ba-mươi ba,
Pañ-ca-si chính là Thần nhạc
Ngũ Kế đuổi ngươi chạy đấy mà.
*
Và Sakka ngâm kệ ca ngợi danh vọng của Pañcasikha:
14. Trống to, trống nhỏ thảy vang lừng
Đánh thức thần dây khỏi giấc nồng,
Khi tỉnh, nhạc hân hoan trổi khúc
Làm tim chàng rộn rã vui mừng.
Nghe lời ngài, Kosiya hỏi:
– Nhờ hành động gì, con người đạt vinh quang thiên giới đến như vậy?
– Những người không thực hành bố thí, những kẻ tạo ác nghiệp và keo kiệt không thể lên thiên giới, mà tái sinh địa ngục.
Sakka ngâm kệ nêu rõ điều này:
15. Sinh ra keo kiệt, kẻ xan tham
Khinh bỉ Bà-la-môn, đạo nhân,
Khi chết, bỏ thân phàm tục ấy,
Phải vào địa ngục trú thân tàn.
Và ngài ngâm các kệ sau để chứng tỏ những người hiền trí theo chánh hạnh sẽ đạt thiên giới:
16. Kiên trì chánh hạnh, đạt thiên đàng,
Bố thí, điền thân, tránh lỗi lầm,
Khi chết, bỏ thân phàm tục ấy,
Sẽ lên thiên giới sống bình an.
Sau đó, Sakka lại bảo:
– Này Kosiya, chúng ta không đến đây để xin ăn cháo đây nhưng vì lòng thương xót ngươi mà chúng ta đến.
Và ngài ngâm kệ nêu rõ việc ấy cho y:
17. Dù trong đời trước có thân tình,
Ngươi hận sân, keo kiệt, ác hành,
Nên chính vì ngươi, ta giáng thế,
Ngăn ngươi khỏi địa ngục lai sinh.
Nghe vậy, Kosiya suy nghĩ: “Các ngài nói các ngài có thiện chí đối với ta, muốn ta khỏi đọa đày địa ngục và an trú vào Thiên giới, và ông vô cùng hoan hỷ ngâm kệ:
18. Như vầy ngài thuyết giảng cho ta,
Chắc chắn ngài mong lợi lạc mà,
Ta sẽ theo lời ngài khuyến giáo,
Như ta hiểu được ý sâu xa.
19. Từ nay ta bỏ thói xan tham,
Kiêng kỵ việc hung ác bạo tàn,
Bố thí gia tài, cho tất cả,
Dù là chén nước cũng chia phần.
20. Sak-ka, bố thí mãi như vầy,
Tài sản nhà ta giảm sút ngay,
Ta quyết sẽ tu hành xuất thế,
Tham dục loại nào cũng chạy bay.
Sau khi cảm hóa Kosiya, Sakka Thiên chủ lại dạy ông các quả báo của hạnh bố thí, làm cho ông biết hy sinh quên mình, và nhờ thuyết Pháp, ngài đã an trú ông vào Ngũ giới xong, liền cùng các vị Thiên hầu cận trở về trời.
Phần Kosiya cũng vào thành Ba-la-nại, sau khi xin phép vua, ông bảo gia nhân đi lấy tất cả nồi chảo mà họ có được, đổ đầy vàng bạc từ kho báu đem cho hành khất. Bấy giở, ông khởi hành từ vùng Tuyết Sơn bên phía hữu, và ở một nơi giữa sông Hằng và một hồ thiên nhiên, ông xây một am thất bằng lá, trở thành ẩn sĩ khổ hạnh sống toàn củ quả rừng. Vị ẩn sĩ sống ở đó một thời gian cho đến tuổi già.
Thời ấy Sakka Thiên chủ có bốn ái nữ: Hy Vọng, Tín Thành, Vinh Quang và Danh Dự. Các nàng đem theo nhiều tràng hoa trời thơm ngát đến hồ Anotatta, chơi đùa trong nước, và sau khi đã thỏa thích ở đó, lại an tọa trên đỉnh Manosilà.
Ngay lúc ấy, ẩn sĩ Bà-la-môn Nàrada lên cung đình cõi trời Ba mươi ba nghỉ ngơi tránh cơn nắng gắt ban ngày, và dựng một chỗ an trú ngay dưới khóm cây Cittakùta trong Thiên lạc Viên Nandana. Cầm một đóa san hô trong tay để làm lọng che nắng, ông về Kim Động, nơi ông an trú trên đỉnh Manosilà. Các Thiên nữ thấy đóa hoa trong tay ông liền xin ông cho hoa.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:
21. Trên đỉnh Hương Sơn, chúa núi rừng,
Sak-ka ái nữ, các tiên nương
Hân hoan nhìn Thánh nhân lừng lẫy,
Bước đến cầm hoa đẹp dị thường.
22. Cành hoa trong sáng ngát mùi hương
Xứng với Thiên tiên, các Thánh thần,
Chẳng quỷ ma hay người thế tục
Dám đòi hoa quý giá vô ngần.
23. Tín Thành, Hy Vọng, với Vinh Quang,
Danh Dự, màu da sáng tựa vàng
Giữa các tiên nương là tuyệt sắc,
Đứng lên nói với Bà-la-môn:
24. Cho đóa san hô, hỡi Thánh nhân,
Nếu cho hoa ấy thuộc oai thần,
Chúng con kính lễ như Thiên chủ,
Ngài sẽ được ban mọi phước phần.
25. Na-ra-da thấy chúng mong cầu
Liền khởi ngay tranh chấp lớn lao:
– Ta chẳng cần hoa, ai muốn được,
Phải là vương hậu các nàng bầu.
Bốn Thiên nữ nghe vậy liền ngâm kệ:
26. Nà-ra-da, tối thượng là ngài,
Ngài muốn ban ai ước nguyện này,
Ai được ngài ban quà tặng ấy
Sẽ là tiên đẹp nhất trong bầy!
Nàrada nghe vậy liền bảo:
27. Tiên nương, lời ấy chẳng như chân,
Tu hành nào dấy cuộc tranh phân?
Hãy tìm lập tức ngài Tiên chúa,
Sẽ biết ai dung sắc tuyệt trần.
*
Lúc ấy bậc Đạo Sư ngâm kệ này:
28. Kiêu ngạo về sắc đẹp, phát cuồng,
Nóng lòng vì bậc trí tinh khôn,
Chúng đi đến Sak-ka Thiên chủ
Để biết ai xinh đẹp nhất đàn.
*
Các nàng vừa đứng, vừa hỏi câu này:
29. Bầy tiên hăm hở vội đi tìm,
Đế Thích đầy tôn trọng, phán liền:
“Tất cả tiên nương đều tuyệt sắc
Vậy ai phá hoại sự bình yên?” .
Nghe ngài hỏi vậy, các nàng đáp:
30. Nà-ra-da, bậc đại hiền nhân
Nhẹ bước du hành giữa cõi không,
Chân lý uyên thâm, chuyên chánh hạnh,
Như vấy, đã nói ở Hương Sơn:
“Hãy tìm Thiên chủ Sak-ka ấy
Để biết ai ưu, liệt giữa đàn”.
Nghe thế, Sakka Thiên chủ suy nghĩ: “Nếu ta bảo ai trong bốn ái nữ của ta đức hạnh vượt lên các nàng kia, chúng sẽ nổi giận. Trường hợp này ta không thể quyết định được. Ta sẽ đưa chúng đến Kosiya, vị ẩn sĩ tại Tuyết Sơn, vị ấy phải quyết định vấn đề này cho chúng”. Vì thế ngài bảo:
– Ta không thể quyết định trường hợp các con được. Trên vùng Tuyết Sơn có vị ẩn sĩ tên là Kosiya. Ta muốn gửi một chén tiên thực tặng vị ấy. Vị ấy chẳng ăn gì mà không chia cho kẻ khác, và trong lúc cho, vị ấy biểu lộ sự xét đoán bằng cách tặng kẻ nào đức hạnh. Ai trong các con nhận được thực phẩm từ tay vị kia là nàng tiên tối thắng giữa cả đàn.
Vừa nói vậy, ngài vừa ngâm kệ:
31. Hiền nhân trú ở khóm rừng xa,
Chẳng đụng thức ăn chưa phát ra;
Vừa tặng quà, Ko-si xét đoán
Ai là đệ nhất đám tiên nga.
Rồi ngài triệu tập Màtali và bảo vị ấy đi đến ẩn sĩ kia; khi truyền lệnh, ngài ngâm kệ sau:
32. Trên sườn núi Tuyết, chỗ Hằng Hà
Xuôi phía Nam, hiền Thánh ẩn cư;
Tiên thực, Mà-ta-li, đến tặng,
Ngài đang thiếu ẩm thực đây mà.
*
Lúc ấy bậc Đạo Sư ngâm kệ:
33. Mà-ta-li nhận lệnh trời ban,
Lái chiếc thiên xa ngựa cả ngàn,
Thoắt đứng dấu mình am ẩn sĩ,
Và dâng tiên thực tặng hiền nhân.
*
Kosiya nhận lấy và ngay khi đang đứng, ông ngâm hai vần kệ:
34. Khi lửa tế đàn, lão đốt lên
Ngợi ca vầng nhật đuổi đêm đen,
Sak-ka ngự trị trên Thiên giới,
Ai khác? – trao tay thực phẩm tiên.
35. Như hạt ngọc trai, trắng tuyệt trần,
Ngát hương, thanh tịnh, đẹp vô ngần,
Mắt ta từ trước chưa hề thấy
Ai đặt vào tay thực phẩm thần?
Màtali liền đáp:
36. Ta đến, Sak-ka hạ lệnh truyền,
Vội vàng mang thực phẩm thần tiên,
Cao lương thượng vị, đừng lo sợ,
Xin hãy ăn đi, hỡi bậc hiền,
Ngài thấy Mà-ta-li trước mắt,
Quản xa thần ở cõi chư Thiên.
37. Do thọ dụng đây thực phẩm thần,
Mười hai ác nghiệp thảy tiêu dần:
Đói cơm, khát nước, buồn, đau, mệt,
Nóng, lạnh, đấu tranh, với hận sân,
Lười biếng, nộ cuồng, mồm phỉ báng,
Mời ngài tiên thực, chớ phân vân.
Nghe vậy, Kosiya ngâm kệ giải thích rằng ông đã có lời phát nguyện xưa:
38a. Ăn một mình, ta thấy thật sai,
Nên xưa ta đã nguyện thành lời:
Ta không đụng đến thức ăn nữa,
Nếu chẳng cho ai bớt một vài.
b. Ăn một mình không được tán thành
Bởi người có trí tuệ cao minh,
Ai không san sẻ cho người khác,
Hạnh phúc làm sao đến với mình?
Khi Màtali hỏi vị này:
– Thưa Thánh giả, ngài thấy điều gì sai trái khi ăn mà chẳng chia phần cho kẻ khác, nên ngài phát nguyện này?
Ông đáp:
39. Những người nào phạm tội tà dâm,
Hoặc bọn người tàn sát nữ nhân,
Phỉ báng, rủa nguyền bao Thánh giả,
Hoặc người phản bội các thân bằng,
Hoặc tồi tệ nhất: người keo kiệt,
Ta chẳng hề mong xếp hạng chung;
Nước uống cho dù là một giọt,
Ta không đụng nếu chẳng chia phần.
40. Vật ta đem tặng mãi tuôn tràn
Cùng khắp nam nhân lẫn nữ nhân,
Bậc trí sẽ tuyên dương những kẻ
Phát ban của cải để thi ân;
Những ai hào phóng trên trần giới
Và tránh xan tham đủ mọi đàng
Sẽ được mọi người đồng tán thán,
Quý yêu như thiện hữu, chân nhân.
Nghe nói vậy, Màtali xuất hiện nguyên hình trước vị này! Vừa lúc ấy, bốn Thiên nữ đứng ở bốn phương: Vinh Quang ở phía Đông, Hy Vọng ở phía Nam, Tín Thành ở phía Tây, và Danh Vọng ở phía Bắc.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:
41. Cả bốn tiên nương sắc tựa vàng,
Tên là Hy Vọng với Vinh Quang,
Tín Thành, Danh Dự, tuân Thiên mệnh,
Bước đến Ko-si-ya ẩn am.
42. Thiên nữ hình dung rực lửa hồng,
Mỗi phương đến đứng một cô nàng,
Trước Ma-ta quản xa Thiên tử,
Bậc trí vui mừng vội hỏi han:
43. “Là ai, Thiên nữ tựa sao mai,
Chiếu sáng trời Đông khắp mọi nơi,
Mình khoác xiêm y vàng chói lọi,
Tên gì cho biết, gái nhà trời?”
44. “Vinh Quang, bạn quý của người đời,
Ta bảo vệ người trong sạch thôi,
Ta đến đây mong cầu thực phẩm,
Xin làm toại nguyện, Thánh nhân ôi!
45. Ta ban hạnh phúc đến người nào
Ta muốn tâm cầu thỏa ước ao,
Tên gọi Vinh Quang, thưa Thánh giả,
Xin đem tiên thực tặng ta nào!
Nghe vầy, Kosiya đáp:
46. Những người tài, đức, lại tinh thông,
Xuất chúng mọi điều trí ước mong,
Song bởi thiếu nàng nên thất bại;
Việc này, ta trách ác phần nàng.
47. Kẻ kia tham dục lại chây lười,
Dị tướng, con dòng hạ liệt thôi,
Song được nàng ban cho phú quý,
Khiến người quý tộc hóa nô tài.
48. Ta thấy nàng hư dối, độn đần,
Cuốn lôi bọn ngốc, thật liều thân,
Lại còn đánh bại bao người trí;
Không có quyền đòi nước, tọa sàng,
Nói gì thực phẩm thần tiên ấy,
Đi gấp, ta không chút thích nàng!
Thế là nàng tiên liền biến mất ngay lập tức. Sau đó ông nói chuyện với nàng Hy Vọng:
49. Nàng là ai, hỡi tiên nga,
Trong sáng, hàm răng trắng mượt mà,
Sáng chói vòng vàng, khuyên lấp lánh,
Xiêm y rực rỡ gợn thu ba,
Đầu cài thoa đỏ như màu lửa
Được đốt bằng chùm cỏ Ku-sa?
50. Trông nàng như một chị nai rừng
Chạm nhẹ mũi tên của thợ săn,
Thơ thẩn mắt nhìn quanh hốt hoảng
Khác nào con vật bị kinh hoàng;
Hỡi nàng Thiên nữ mắt hiền dịu,
Nàng có bạn nào ở đấy chăng,
Vì thế lạc đường không sợ hãi
Một mình phiêu bạt giữa rừng hoang?
Nàng đáp vần kệ này:
51. Ta chẳng có đây bạn chí thân,
Từ Sak-ka điện, chốn Thiên cung,
Ma-sak-ka ấy là tên gọi,
Ta chính là Thiên nữ giáng trần,
Hy Vọng giờ đây đang xuất hiện
Để mong cầu thực phẩm thiên thần,
Xin ngài nghe kỹ, thưa Tôn giả,
Và tặng ta điều vẫn ước mong.
Nghe vậy, Kosiya bảo:
– Người đời vẫn nói với ta rằng bất cứ ai làm nàng hài lòng, nàng liền ban hy vọng cho kẻ ấy bằng cách hoàn thành kết quả của niềm hy vọng, còn ai không làm nàng vui lòng, thì nàng không ban cho kẻ ấy. Như thế, thành công không đến với kẻ ấy là do nàng, mà nàng lại tạo ra thất bại kia.
Để chứng minh điều này, ông ngâm kệ:
52. Lái buôn hy vọng kiếm kho tàng
Ra biển lên tàu vượt đại dương,
Đôi lúc chìm tàu đâu thấy nữa,
Mất vàng, thoát chết cũng kêu than.
53. Nông gia cày ruộng vẫn cầu mong
Gieo hạt, cố làm hết khả năng,
Song gặp tai ương hay hạn hán,
Mất mùa gặt hái để bù công.
54. Kẻ thích giàu, hy vọng hết lòng
Vì vua chiến đấu thật anh hùng,
Ngã nhào, địch siết vòng vây hãm,
Chiến đấu vì vua phải thiệt thân.
55. Để vàng, kho lúa tặng bà con,
Vì lạc thiên đường vẫn ước mong,
Chịu đựng lâu ngày bao khổ hạnh,
Do tà pháp dẫn đến đau buồn.
56. Lừa dối thế nhân, ước hão huyền,
Hãy lìa hư vọng thỏa tâm nguyền,
Không quyền đòi hỏi ngay sàng tọa
Bình nước, nói gì thực phẩm tiên!
Ta chẳng thích nàng, Hy Vọng hỡi,
Biến đi, nàng hãy biến đi liền!
Nàng Thiên nữ ấy cũng bị khước từ, liền biến mất dạng ngay lập tức. Sau đó vị ấy lại ngâm kệ trò chuyện với Thiên nữ Tín Thành:
57. Lừng danh Thiên nữ sắc huy hoàng
Đứng phía trời Tây tướng bất trường,
Mình khoát xiêm y vàng rực rỡ,
Tên gì cho biết, hỡi tiên nương.
Nàng liền ngâm kệ đáp:
58. Tín Thành, bạn quý của người đời,
Ta bảo vệ người trong sạch thôi,
Ta đến đây cầu mong thực phẩm,
Xin làm toại nguyện, Thánh nhân ôi!
Kosiya bảo:
– Những người nào vì tin tưởng từ lời này đến lời khác vẫn hay làm các chuyện nọ chuyện kia, thường làm những việc không nên làm hơn là những việc nên làm, và thực sự tất cả đều do nàng.
Và vị ấy ngâm các vần kệ:
59. Bố thí rộng tay bởi tín tâm,
Cử kiêng, điều phục, hộ phòng thân;
Vì nàng, có lúc mất ân phước,
Trộm cắp, vu oan, lại vọng ngôn.
60. Với vợ hiền, cao quý, thục đoan,
Đàn ông thường thận trọng, khôn ngoan,
Dục tình chế ngự đầy chu đáo,
Song đặt lòng tin ả bán hương!
61. Vì nàng, lan rộng thói tà dâm,
Nàng bỏ thiện lương, sống lỗi lầm.
Không có quyền đòi bình nước uống,
Cũng chẳng đòi đâu được tọa sàng,
Nói gì thực phẩm từ thiên giới;
Đi gấp, ta không chút thích nàng!
Nàng Thiên nữ cũng biến ngay lập tức. Nhưng Kosiya lại trò chuyện với nàng Danh Dự khi nàng đang đứng ở phương Bắc, và ngâm hai vần kệ:
62. Bình minh viền rực bóng đêm tàn,
Như chóa mắt ta, sắc đẹp nàng,
Thiên nữ hình dung, ôi tuyệt mỹ,
Nàng là ai, hãy nói danh xưng.
63. Như một cây mềm, dễ mọc ngang
Trên vùng đất lửa đốt lan tràn,
Lá hồng theo gió mùa hè rụng,
Sao cứ nhìn ta dáng thẹn thuồng
Như thể có điều gì muốn nói,
Nhưng yên lặng đứng đó, cô nàng?
Lúc ấy nàng ngâm kệ đáp:
64. Danh Dự là ta, bạn chí thân
Vẫn thường giúp đỡ các chân nhân,
Đến đây ta muốn xin tiên thực,
Song ước mơ nào dám nào năng,
Cầu khẩn đáng là điều hổ thẹn,
Nhất là đối với gái hồng quần.
Nghe vầy, vị ẩn sĩ ngâm hai vần kệ:
65. Nàng chẳng cần đòi hỏi khẩn van,
Nhận sao cho hợp với quyền nàng,
Ta ban điều dám đâu mơ tưởng,
Hãy nhận món này thỏa ước mong.
66. Hôm nay dùng tiệc ở trong am,
Xin hạ cố, Thiên nữ sắc vàng,
Ta thiết đãi nàng bao thượng vị,
Món ăn thiên giới cũng chia nàng.
*
Những vần kệ sau đây phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng của đức Phật:
67. Danh Dự, tiên nương thật vẻ vang,
Được mời làm khách ở trong am,
Ko-si-ya có nhiều hoa quả,
Khe suối quanh năm chảy ngập tràn,
Lại thấy từng đoàn hiền Thánh giả
Vẫn thường lui tới các thôn làng.
68. Rập rạp khóm cây đang trổ hoa,
Pi-yal, xoài, mít cạnh Ju-da,
Sà-la, đào đỏ tươi tô điểm,
Hùng vĩ, sung, bàng đổ bóng xa.
69. Theo gió, nhiều hoa tỏa ngát hương,
Đậu kê, gạo đủ thứ, kìa trông,
Nơi nơi buồng chuối trồng phong phú,
Tre, sậy chen nhau rập nhất vùng.
70. Ở về phía Bắc, được viền quanh
Bờ bến phẳng phiu, mát dịu lành,
Khe suối trong ngần tuôn chảy mãi,
Hãy nhìn hồ nước dáng uy linh.
71. Đàn cá tung tăng hạnh phúc tràn
Tự do nô giỡn thật bình an,
Giữa bao thực phẩm đầy phong phú
Hưởng thọ sao cho thỏa ước mong.
72. Bầy chim hạnh phúc chốn an bình
Thưởng thức cao lương thật thỏa tình,
Thiên nga, ưng, hạc, chim công quý,
Cu gáy, ngỗng hồng với trĩ xanh.
73. Cọp, beo, sư tử đến từng bầy
Làm dịu ngay cơn khát chốn này,
Gấu, chó, sói rừng thường lảng vảng,
Đấy là nguồn nước uống tràn đầy.
74. Trâu nghé, tây ngưu cũng đến đây,
Linh dương, nai đỏ, lợn từng bầy,
Hươu rừng rất lớn và nhiều loại
Xuất hiện mèo tai thỏ lắm thay!
75. Các sườn núi rực rỡ muôn hoa
Tươi thắm bao màu sắc điểm tô,
Vang dội tiếng chim muông ríu rít,
Lượn bay khắp cả chốn rừng thưa.
Đức Thế Tôn đã ca tụng vùng thảo am của Kosiya như vậy. Bây giờ để miêu tả cung cách Thiên nữ Danh Dự đi vào am, Ngài ngâm kệ:
76. Nàng Thiên nữ dựa một cây cành
Bao phủ quanh bằng tán lá xanh,
Như chớp từ vầng mây sấm sét
Sáng lòe lên giữa cảnh am tranh.
77. Tọa sàng thanh lịch soạn cho nàng
Ở phía trên đầu, nệm thật sang
Bằng cỏ Ku-sa thơm sực nức,
Phủ ngoài da quý của linh dương.
78. Vị Thánh ẩn cư lại bảo ban
Cùng nàng Danh Dự, vị tiên nương:
“Tọa sàng đã soạn cho nàng hưởng,
Xin hãy an tâm nhận tọa sàng”.
79. Ẩn sĩ lấy ra nước suối trong
Đựng vào lá mới hái, nhanh chân,
Biết điều thầm kín nàng mơ ước,
Hoan hỷ, người trao thực phẩm thần.
80. Tay ôm tặng vật, dạ vui mừng
Thiên nữ hân hoan bảo Thánh nhân:
“Thờ phụng ta rồi ngài thắng lợi
Giờ ta tìm lại cảnh thiên đường”.
81. Thiên nữ say kiêu hãnh vẻ vang
Với ân huệ yết kiến Thiên hoàng:
“Hãy nhìn, Thiên đế ngàn con mắt,
Tiên thực đây. Phần thưởng hãy ban”.
82. Sak-ka cùng với chúng Thiên thần
Kính lễ nàng Thiên nữ tuyệt luân,
Trong lúc nàng ngồi trên bảo tọa,
Thiên nhân đồng ái mộ dung nhan.
Trong lúc tôn vinh nàng như vậy, ý tưởng này chợt đến với Thiên chủ Sakka: “Vì duyên cớ gì Kosiya từ chối ban tặng vật cho các nàng kia, lại ban thực phẩm thần tiên cho nàng này thôi?”. Để xác định lý do này, ngài lại triệu Màtali đến.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:
83. Sak-ka Thiên chủ cõi Băm ba
Phán lệnh Mà-ta-li quản xa,
Truyền: “Đến bảo hiền nhân giải thích
Cớ gì Danh Dự được ban quà?
Tuân lệnh ngài, Màtali cỡi thiên xa Vejayanta (Tối thắng xa của Đế Thích) khởi hành đến nơi kia.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ giải thích vấn đề:
84. Vì vậy, Mà-ta-li vội vàng
Phóng xe du lịch giữa không gian,
Phụ tùng mọi thứ đều cân xứng
Trong vẻ vinh quang đẹp dị thường,
Càng đúc bằng vàng tinh luyện kỹ,
Khung xe đóng khéo được trang hoàng
Cầu kỳ, đủ các hình tô điểm,
Tất cả xe đều chạm trổ vàng.
85. Trên vàng được phát họa chim công
Khéo tạo thành con số thật đông,
Bò, ngựa, hổ, voi và báo nữa,
Linh dương, nhung lộc sắp tranh hùng,
Ở trong bảo ngọc này đều khắc
Đàn cưỡng cùng chim khác lượn vòng.
86. Xe được thắng thiên mã cả ngàn,
Mạnh như voi trẻ, sắc kim hoàng,
Cảnh này xem thực vinh quang quá,
Ngực chúng đều bao mạng lưới vàng
Cùng các tràng hoa treo lủng lẳng,
Được buông lơi lỏng sợi dây cương,
Vừa khi nghe một lời ra lệnh,
Chúng lướt nhanh như gió nhẹ nhàng.
87. Ngay lúc Mà-ta nhảy vụt nhanh
Cỡi thiên xa ấy, giữa thiên thanh,
Âm thanh mười hướng đồng vang dội
Qua giữa không gian đã tốc hành,
Thiên tử làm trần gian chấn động:
Biển, trời, đất với núi rừng xanh.
88. Chẳng bao lâu đến thảo am kia
Mong ước tỏ lòng tôn kính ra,
Để một vai trần chào Thánh giả,
Mà-ta-li lại bắt đầu thưa
Với vị Bà-la-môn trí tuệ
Tinh thông Thánh điển thật cao xa.
89. Nghe đây, Tôn giả Ko-si-ya,
Lời nói của Thiên chủ Sak-ka
Về việc ngài đang mong muốn biết,
Kìa xem, sứ mạng được giao ta:
“Trong khi Tôn giả không công nhận
Quyền của Tín Thành, Hy Vọng và
Vinh Quang, xin hỏi sao Danh Dự
Riêng nhận từ tay ấy thưởng quà?”
Khi nghe những lời này, vị ẩn sĩ khổ hạnh ngâm vần kệ:
90. Mà-ta-li hỡi, nàng Vinh Quang
Là ngọc nữ không được vẹn toàn,
Trong lúc Tín Thành tâm bất định,
Hỡi ngài, Thiên tử quản xa thần,
Nàng Hy Vọng vẫn thường lừa dối
Thích phản bội lời hứa của nàng,
Danh Dự riêng mình theo đức hạnh,
Trú thân trong Thánh đạo bình an.
Bây giờ vị ấy lại ngâm kệ ca ngợi đức hạnh của nàng:
91. Sống ở gia môn, gái má hồng
Vẫn luôn được bảo vệ, canh phòng,
Nữ nhân đã quá thời xuân sắc,
Và những kẻ đang sống với chồng,
Ví thử có khi nào nhục dục
Bỗng nhiên phát khởi ở trong lòng,
Nghe lời nói của nàng Danh Dự,
Chế ngự dục tâm hạ xuống dần.
92. Khi các dáo, tên ở chiến trường
Phóng nhanh rào rạt tựa mưa tuôn,
Trong cơn trốn chạy, bao đồng đội
Ngã xuống hay đào tẩu loạn cuồng,
Nghe được lời nàng Danh Dự nói,
Nhiều người dừng chạy, dẫu nguy nan,
Và dầu đang ngập tràn kinh hoảng,
Lần nữa xông ra chốn kiếm thương.
93. Giống như bờ biển vẫn thường ngăn
Những đợt ba đào giữa đại dương,
Danh Dự cũng thường hay trấn áp
Con đường của những bọn tà gian;
Mà-ta-li hỡi, mau về gặp
Thiên chủ In-dra, nói rõ ràng:
Bậc Thánh khắp nơi trên thế giới
Thảy đều tôn trọng đại danh nàng.
Nghe vậy, Màtali ngâm vần kệ:
94. Ko-si-ya, kẻ ấy là ai
Đã gợi ý kia đến với ngài,
Có phải là In-dra Đại đế,
Phạm thiên, đầy tạo hóa cao vời?
Nàng Danh Dự ấy, thưa Tôn giả,
Phải biết được sinh bởi ý trời
Thiên chủ In-dra, trên thượng giới,
Riêng nàng đức hạnh tối cao ngôi.
Trong lúc vị Thiên tử nói, ngay chính thời khắc ấy, Kosiya sắp phải tái sinh. Màtali liền bảo:
– Này Kosiya, thân ngũ uẩn đang lìa Tôn giả. Việc thực hành hạnh bố thí đã viên mãn. Tôn giả còn có gì liên hệ với nhân thế nữa đâu? Chúng ta sẽ cũng lên thiên giới bây giờ.
Vừa quyết định đưa vị ấy lên trời, Thiên tử vừa ngâm kệ:
95. Thánh nhân, hãy bước đến bây giờ,
Lập tức lên xe quý của ta,
Ta sẽ dẫn ngài về thượng giới,
Cung đình ngự trị cõi Băm ba
In-dra đang đợi chờ Tôn giả,
Quyến thuộc ln-dra quả thực là.
Thiên đạo hôm nay lên cộng trú
Ngài thành đạt với chúa In-dra.
Trong lúc Màtali đang nói, Kosiya từ trần và hóa sinh vào hàng Thiên chúng mà không cần qua trung gian cha mẹ, rồi bước lên đứng trên thiên xa. Sau đó Màtali đưa vị ấy đến yết kiến Sakka. Khi thấy vị ấy, Thiên chủ Sakka rất đẹp ý và thưởng Thiên nữ Danh dự cho vị ấy đưa về làm vương hậu chánh cung, lại ban cho vị ấy vương quyền cai trì một miền rộng bao la nữa.
*
Trong khi nhận xét thực trạng các pháp, bậc Đạo Sư bảo:
– Chính công đức của một số hiền nhân được thanh tịnh theo cách ấy.
Và Ngài ngâm vần kệ cuối cùng:
96. Chính hành động của Thánh hiền nhân
Đưa đến đời sau quả phước ân,
Kết quả thiện hành an trú mãi.
Người nhìn thực phẩm của Thiên thần
Được đem trao tặng nàng Danh Dự,
Thân hoại, trú an với Ngọc hoàng.
*
Đến đây bậc Đạo Sư chấm dứt Pháp thoại với những lời này:
– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà ngày xưa nữa, Ta cũng đã giáo hóa kẻ xan tham này vốn là gã keo kiệt cố hữu.
Nói xong, Ngài nhận diện Tiền thân?
-Thời ấy Uppalavannà (Liên Hoa Sắc) là Thiên nữ Danh Dự, vị Tỷ-kheo có tâm bố thí hào phóng là Kosiya, Anuruddha (A-na-luật-đà) là Màtali, Kassapa (Ca-diếp) là Suriya, Moggallàna (Mục-kiền-liên) là Canda, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là Nàrada, và Ta chính là Sakka Thiên chủ.
-ooOoo-
536. Chuyện Chúa Chim Kunàla (Tiền thân Kunàla)
Câu chuyện này do bậc Đạo Sư kể trong lúc trú gần hồ Kùnàla, liên hệ đến năm trăm vị Tỷ-kheo bị tâm bất mãn chi phối. Câu chuyện diễn tiến theo trình tự sau đây.
Hai bộ tộc Sàkiya (Thích-ca) và Koliya (Câu-ly) có con sông Rohini chảy giữa hai thành phố Kapilavatthu (Ca-tỳ-vệ) và Koliya, sông này được ngăn bằng một con đê duy nhất, nhờ đó dân chúng cày bừa gặt hái. Trong tháng Jetthamùla (tháng năm và sáu), khi lúa bắt đầu trổ bông và rủ xuống, nông dân cư trú ở hai thành này tụ họp lại. Rồi dân chúng Koliya nói:
-Nếu cả hai bên cùng kéo nước, thì nước sẽ không đủ cho cả hai thành phố chúng ta. Song dân chúng tôi sẽ được mùa to nếu chỉ một bên chúng tôi kéo nước, vậy hãy cho chúng tôi nước sông này.
Dân chúng thành Kapilavatthu đáp:
– Khi các ông đã chất thóc đầy vựa thì chúng tôi không dám cả gan đem vàng ròng, ngọc bích, tiền đồng, thúng giỏ trong tay lai vãng trước cửa nhà các ông đâu. Chúng tôi cũng sẽ được mùa to nếu chỉ riêng chúng tôi lấy nước, vậy hãy cho chúng tôi lấy nước đi.
– Ta không muốn cho – Đám người này đáp.
– Ta cũng không muốn – Đám người kia trả lại.
Trong lúc lời qua tiếng lại ồn ào như vậy, một người trong bọn họ đứng lên đấm vào một kẻ khác, đến lượt người ấy đấm trả một kẻ thứ ba và cứ thế họ đấm đá nhau và hằn học đụng chạm vào nguồn gốc hoàng tộc của nhau, làm tăng dần cảnh huyên náo ấy. Các nông gia Koliya bảo:
– Các người Kapilavatthu hãy cút ngay đi, chúng bây là loài cẩu trệ, lang sói, ăn ở với chị em gái của mình như súc vật kia. Voi, ngựa, giáo khiên của chúng chống lại ta có lợi ích gì?
Các nông gia Sakiya đáp:
– Này lũ người cùi khốn nạn, hãy cút đi mau với con cháu của bây, một lũ tồi tàn, thân phận hèn hạ, chẳng khác bầy dã thú sống trong bông cây táo. Voi, ngựa, giáo, khiên của chúng chống lại ta có ích lợi gì?
Vì thế họ đi kể chuyện với các viên chức trong hội đồng phụ trách công việc ấy và các vị này lại báo cáo với các vị trưởng tộc hoàng gia. Sau đó, các vị trưởng tộc Sakiya (Thích-ca) bảo:
– Phe ta sẽ cho chúng thấy đám người ăn ở với chị em gái của mình hùng dũng như thế nào.
Rồi họ xông ra, sẵn sàng chiến đấu. Còn bộ tộc Koliya (Câu-ly) bảo:
– Phe ta sẽ cho chúng thấy những người sống trong bộng cây táo hùng dũng ra sao.
Và họ cũng xông tới, sẵn sàng chiến đấu.
Nhưng một số đạo sư khác lại kể chuyện như vầy:
“Khi các nữ tỳ của bộ tộc Sakiya (Thích-ca) và bộ tộc Koliya (Câu-ly) ra sông để lấy nước, vừa ném xuống đất các vành khăn họ đội trên đầu, vừa ngồi xuống chuyện trò vui vẻ, thì một người cầm nhầm khăn của người khác vì tưởng đó là khăn của mình, và khi có tranh cãi do việc này gây ra, mỗi người đều bảo khăn kia của mình, dần dần dân chúng của hai kinh thành cả nô lệ, nông dân, tùy tùng, thủ lãnh, quan chức, phó vương đều xông ra sẵn sàng chiến đấu.
Tuy thế, bản kinh trước được tìm thấy trong nhiều tập Sớ giải và được xem là hợp lý, đáng chấp nhận hơn bản sau.
Bấy giờ vào buổi xế chiều, dân chúng đã xông ra sẵn sàng lâm trận. Thời ấy, đức Thế Tôn đang trú tại Sàvatthi, lúc rạng đông, trong khi đang quán sát thế gian, Ngài thấy họ khởi hành ra trận, Ngài tự hỏi nếu Ngài đến đó, trận chiến có chấm dứt chăng, và Ngài quyết định: “Ta quyết đến đó và để dập tắt cuộc tử chiến này, ta sẽ kể ba chuyện Tiền thân, để chứng minh lợi lạc của tình đoàn kết, ta sẽ dạy họ Kinh Attadanta: Bạo lực (Sutta Nipàta: Kinh Tập IV, 15) và sau khi nghe ta thuyết giảng, dân chúng hai thành này sẽ đưa đến diện kiến ta mỗi bên hai trăm năm mươi thanh niên, ta sẽ nhận họ vào Giáo đoàn và Hội chúng càng thêm đông đảo”.
Vì thế, sau khi đã tắm rửa, Ngài đến thành Sàvatthi khất thực. Lúc trở về, sau buổi thọ trai, vào xế chiều, Ngài bước ra từ Hương phòng, không báo cho ai một lời, Ngài cầm y bát và một mình ra đi và ngồi kiết-già trên không giữa hai đám người ấy.
Thấy rằng đây là cơ hội làm quần chúng kinh ngạc, Ngài ngồi đấy tỏa ra các tia sáng xanh đậm từ tóc Ngài khiến bầu trời đen tối. Rồi khi tâm họ lo âu, Ngài liền xuất hiện và tỏa ra ánh sáng ngũ sắc.
Dân chúng Kapilavatthu thấy đức Thế Tôn liền suy nghĩ: “Đức Thế Tôn, vị thân tộc cao quý của ta, đã đến. Có thể Ngài đã thấy phận sự chiến đấu đặt trên phe ta chăng? Nay bậc Đạo Sư đã đến, ta không thể lao vũ khí chống kẻ thù nào nữa?”. Rồi họ hạ vũ khí xuống và nói:
– Dân Koliya cứ giết chết hay thiêu sống ta đi.
Dân Koliya cũng làm giống như vậy.
Lúc ấy đức Thế Tôn giáng lâm, và ngự trên bảo tọa của đức Phật đặt ở một nơi tuyệt đẹp trên bãi cát, và Ngài chiếu hào quang vô thượng của một bậc Giác Ngộ.
Các vị vua đảnh lễ đức Thế Tôn và an tọa. Sau đó bậc Đạo Sư hỏi, mặc dù Ngài đã biết rõ sự việc:
– Thưa các Đại vương, tại sao các vị đến đây?
– Bạch Thế Tôn, chúng con đến đây không phải để ngắm dòng sông hay vui chơi, mà để chiến đấu.
– Các Đại vương có tranh chấp về việc gì?
– Về nước sông.
– Thế nước sông đáng giá bao nhiêu?
– Bạch Thế Tôn, rất ít.
– Thế đất đai đáng giá bao nhiêu?
– Đất vô giá.
– Thế các vị Tướng quân đáng giá bao nhiêu?
– Họ cũng vô giá.
– Thế tại sao chỉ vì một chút nước chẳng ra gì mà các vị phải hủy diệt các tướng quân cao quý? Quả thật, cuộc tranh chấp này không có gì đền bù được cả song vì một cuộc tử chiến giữa một vị thần cây và một sư tử đen nên một mối thù truyền kiếp đã được tạo ra và kéo dài đến tận hiện kiếp này.
Cùng với những lời trên, Ngài kể cho họ nghe Tiền thân Phandana (số 475, Tập V). Sau đó Ngài bảo?
– Không nên đi theo nhau một cách mù quáng thế này. Một đoàn súc vật bốn chân ở vùng Tuyết Sơn trải dài ba ngàn dặm, đã theo lời một con thỏ, lần lượt đâm đầu xuống biển cả. Do đó, không nên theo nhau cách này.
Nói vậy xong, Ngài kể Tiền thân Daddabha (số 322, Tập III)
Hơn nữa, Ngài lại bảo:
– Đôi khi kẻ yếu nhìn thấy nhược điểm của người mạnh; khi khác, kẻ mạnh thấy nhược điểm của người yếu, nên có lần một con chim cút mái đã giết một vương tượng. Và Ngài kể Tiền thân Latukika (số 357, Tập III).
Như vậy để làm dịu cuộc tranh chấp, Ngài đã kể ba chuyện Tiền thân. Và để chứng minh hiệu quả của sự đoàn kết, Ngài kể hai chuyện Tiền thân:
– Trong trường hợp những sinh vật sống chung đoàn kết, không ai tìm ra kẽ hở để tấn công cả.
Nói vậy xong, Ngài kể Tiền thân Rukkhadhamma (số 74, Tập I)
Ngài lại nói:
– Đối với những sinh vật đoàn kết, không ai có thể tìm ra lỗ hổng để tấn công cả, nhưng khi chúng đã tranh chấp lẫn nhau, thì một kẻ đi săn nào đó cũng tàn phá chúng và tiêu diệt chúng. Quả thật không có phần thưởng gì trong cuộc tranh chấp cả.
Cùng với những lời này, Ngài kể Tiền thân Vattaka (số 33, Tập I).
*
Sau khi đã kể năm chuyện Tiền thân như vậy, Ngài chấm dứt bằng cách tụng kinh Attadanta. Khi đã trở thành những kẻ mộ đạo, các vị vua nói:
– Nếu bậc Đạo Sư không đến, chúng ta đã tàn sát lẫn nhau làm máu chảy thành sông. Chính nhờ bậc Đạo Sư mà chúng ta còn sống. Nhưng ví thử trước kia bậc Đạo Sư sống đời thế tục, thì giang sơn gồm bốn đại châu lục cùng với hai ngàn đảo nhỏ nữa hẳn đã vào tay Ngài và hẳn Ngài đã có hơn một ngàn vương tử. Hơn nữa, chắc hẳn Ngài đã có một đoàn tùy tùng gồm các tướng lãnh quý tộc. Song từ bỏ mọi vinh quang này, Ngài xuất thế và đạt Trí tuệ Tối thắng. Bây giờ ta hãy tiễn Ngài lên đường cùng một đoàn tùy tùng tướng lãnh quý tộc.
Thế là dân chúng hai thành mỗi bên tặng Ngài hai trăm năm mươi vị quý tộc. Sau khi truyền giới xuất gia cho họ, Ngài đi về một khu rừng lớn.
Từ ngày hôm sau, được đệ tử hộ tống Ngài đi khất thực ở hai thành, khi thì vào Kapilavatthu, lúc khác lại vào Koliya, dân chúng cả hai thành đều hết sức kính trọng Ngài.
Giữa đám vương gia quý tộc này là những vị thọ giới không do hoan hỷ mà vì kính trọng bậc Đạo Sư nỗi bất mãn trong tâm liền sinh. Những người vợ cũ của họ muốn khơi dậy niềm bất mãn của họ, cứ gửi đi những lời nhắn tin này nọ, khiến họ lại càng trở nên nản lòng thối chí hơn nữa.
Khi quán sát, bậc Đạo Sư nhận thấy tâm họ đã bất mãn như thế nào, liền suy nghĩ: “Các Tỷ-kheo này, dù sống với một vị Giác Ngộ như Ta, vẫn sinh tâm bất mãn. Ta thử xem cách thuyết giảng nào sẽ ích lợi cho họ”, và Ngài nghĩ đến Pháp thoại Kunàla. Rồi ý tưởng này chợt nảy ra trong trí Ngài: “Ta sẽ đưa các Tỷ-kheo này đến vùng Tuyết Sơn và sau khi chứng minh các ác dục liên hệ đến nữ giới qua chuyện Kunàla và xóa tan nỗi bất mãn của họ, ta sẽ cho họ đạt Sơ quả trong Thánh đạo.
Vì thế sáng sớm Ngài đắp y trong và cầm y bát đi khất thực ở thành Kapilavatthu, sau khi trở về và dùng ngọ trai đã xong, Ngài bảo năm trăm vị Tỷ-kheo:
– Các ông đã từng thấy vùng Tuyết Sơn đầy lạc thú chưa?
– Bạch Thế Tôn, chưa – Các vị đáp.
– Thế các ông có muốn đi chiêm bái Tuyết Sơn chăng?
– Bạch Thế Tôn, chúng con không có thần thông lực làm sao chúng con đi được?
– Song giả sử có ai đó đưa các ông cùng đi, các ông có muốn đi chăng?
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Bậc Đạo Sư liền dùng thần lực đưa tất cả các vị lên không gian và du hành đến vùng Tuyết Sơn, vừa trụ trên không, Ngài vừa chỉ cho Hội chúng xem một dãy Tuyết Sơn kỳ diệu với nhiều đỉnh núi như Kim Sơn, Ngọc Sơn, Hồng Sơn, Ngân Sơn, Bình Địa Sơn, Thủy Tinh Sơn, với năm sông lớn và các hồ Kannamundaka, Rathakàra, Sihappapàta, Chaddanda, Tiyaggala, Anotatta và Kunàla, tất cả bảy hồ.
Tuyết Sơn là một vùng mênh mông, cao năm trăm dặm, rộng ba ngàn dặm. Ngài đã dùng thần thông lực chỉ cho Hội chúng thấy cảnh tuyệt mỹ của vùng này, cùng các nơi cư trú được xây tại đó, và các loại súc vật như từng đoàn sư tử, cọp, voi… Ngài đều chỉ rõ từ nơi này: các vùng đất thiêng và nhiều lạc viên khác đầy hoa quả sum sê, từng đàn chim đủ loại và các cây hoa mọc trên đất lẫn dưới nước, bên sườn Đông của Tuyết Sơn là một bình nguyên đất vàng và bên sườn Tây là một bình nguyên đất đỏ.
Thoạt nhìn thấy những vùng kỳ vĩ này, nỗi lòng mong nhớ khát khao của các Tỷ-kheo đối với các bà vợ cũ tiêu tan mất. Sau đó, bậc Đạo Sư cùng các Tỷ-kheo từ không trung hạ xuống sườn Tây của Tuyết Sơn trên một cao nguyên rộng sáu mươi dặm, trong thung lũng đỏ dài ba dặm, dưới gốc cây Sà-la bao phủ cả bảy dặm và trường thọ suốt một kiếp, bậc Đạo Sư được Tăng chúng vây quanh, tỏa hào quang lục sắc và an tọa, làm chấn động cả lòng đại dương và chiếu sáng như mặt trời, Ngài nói với các Tỷ-kheo bằng một giọng ngọt như mật:
– Này các Tỷ-kheo, hãy hỏi Ta về các kỳ quan mà các ông chưa từng thấy ở vùng Tuyết Sơn này.
Lúc ấy, hai chim cu cườm ngậm một khúc cây ở hai đầu, và ở giữa có đặt chim chúa. Tám chim cu ở trước và tám con ở sau, tám con bên phải và tám con bên trái, tám con ở dưới và tám con ở trên, cứ thế che bóng trên chim chúa trong khi vừa hộ tống chim chúa vừa bay qua không gian.
Khi thấy đàn chim này, các Tỷ-kheo hỏi bậc Đạo Sư:
– Bạch Thế Tôn, bầy chim này có ý nghĩa gì chăng?
– Này các Tỷ-kheo, đây là một tục lệ cổ của gia tộc ta, một truyền thống do Ta tạo ra, thời xưa chúng hộ tống Ta như vậy. Thuở bấy giờ có cả một đàn chim lớn. Ba ngàn năm trăm chim mái son trẻ đã hộ tống Ta. Dần dần chúng tản mát, và đàn chim còn lại như các ông thấy đó.
– Bạch Thế Tôn, chúng đã hộ tống Thế Tôn trong rừng nào?
Bậc Đạo Sư bảo.
– Này các Tỷ-kheo, hãy nghe đây.
Vừa hồi tưởng chuyện cũ, Ngài vừa kể một chuyện quá khứ và giáo hóa các vị như vầy.
*
Đây là chuyện tương truyền và danh tiếng phát ra từ đó:
Một vùng đất kia có đủ loại cây cỏ mọc lên, được phủ với nhiều khóm hoa, nhiều dã thú lai vãng như voi, gayal, trâu, nai, trâu rừng (yak), hươu sao, tê giác, nai lớn, sư tử, hổ, báo, gấu, sói, linh cẩu, rái cá, linh dương kadalì, mèo rừng, thỏ tai dài, vô số đàn voi đủ loại trú ngụ, đủ loại hươu nai lui tới, là nơi nương náu của bầy yakkha (dạ-xoa) mặt ngựa, yêu tinh, ma quỷ…
Vùng ấy lại được một khóm cây rậm rạp che phủ, nở hoa ở trên ngọn, thân mảnh mai cao, không có lỏi bên trong, vang dội tiếng chim líu lo, sung sướng như điên cuồng, nào là chim ưng, gà gô, chim voi, công trĩ, cu gáy; vùng ấy lại được tô điểm với hàng trăm khoáng chất như thủy ngân, thạch tín trắng, thạch tín vàng, son đỏ, vàng và bạc. Chính trong khu rừng kỳ thú này có con chim Kunàla (một loại sơn ca), màu sắc rực rỡ với bộ lông sáng chói. Chim Kunàla này có ba ngàn năm trăm chim mái theo hầu. Thời ấy hai con chim ngậm một khúc cây trong mỏ đặt chim Kunàla ở giữa và bay lên, vì sợ rằng nỗi gian lao trong quãng đường xa sẽ làm chim này nhích ra khỏi chỗ đậu và rơi xuống.
Năm trăm chim mái bay phía dưới và chúng suy nghĩ: “Nếu chúa Kunàla này rơi xuống khỏi chỗ đậu, thì chúng ta sẽ giữ lấy ngài trong đôi cánh của ta”.
Năm trăm chim khác bay phía trên, vì sợ rằng sức nóng làm cháy da chim Kunàla.
Năm trăm chim khác bay mỗi bên ngai, để cản nóng, lạnh, cỏ cây, bụi bặm, gió, sương đụng vào ngài.
Năm trăm chim bay phía trước vì sợ rằng bọn chăn trâu bò, cắt cỏ, lượm củi, tiều phu, kiểm lâm đánh chim Kunàla bằng que củi, hay mảnh sành, nắm tay hay hòn đất, cây gậy hay con dao, hòn sỏi, hoặc lo rằng chim Kunàla sẽ va chạm vào bụi cây, dây leo, hay cây lớn, cột trụ, tảng đá hoặc một con chim lớn nào đó.
Năm trăm chim bay phía sau, nói với Ngài những lời dịu dàng, thân ái bằng những âm điệu du dương, ngọt ngào vì e rằng chim Kunàla mệt mỏi trong khi đậu tại đó.
Năm trăm chim bay lượn vòng quanh đây đó, mang về đủ loại trái cây khác nhau vì sợ rằng chim Kunàla phải chịu đói khổ.
Thời ấy bầy chim nhanh nhẹn đưa chim Kunàla đi du ngoạn từ lạc viên này đến lạc viên khác, khu vườn này đến khu vườn khác, bờ sông này đến bờ sông khác, đỉnh núi này đến đỉnh núi khác, vườn xoài này đến vườn xoài khác, vườn hồng đào này đến vườn hồng đào khác, vườn mít này đến vườn mít khác, rừng dừa này đến rừng dừa khác. Cứ thế ngày nọ sang ngày kia, chim Kunàla được bầy chim này hộ tống như vậy, lại trách mắng chúng:
– Này lũ xấu xa kia, chết đi, chết tiệt cả đi, chúng bây là quân trộm cắp, lừa đảo, vô tâm, phù phiếm, bạc nghĩa vong ân, như gió cuốn đi bất cứ nơi nào chúng bây muốn.
*
Sau những lời này, bậc Đạo Sư bảo:
– Này các Tỷ-kheo, hiển nhiên là ngay khi Ta còn ở đời sống súc sinh, ta đã hiểu rõ tính tình vô ơn, độc ác, vô luân của nữ giới, và ngay thời ấy, Ta đã không rơi vào uy lực của họ và Ta đã đặt họ dưới uy lực của Ta.
Khi Ngài đã xóa tan nỗi bất mãn trong tâm Tăng chúng, Ngài lại giữ im lặng.
Vào lúc này, hai chim cu màu đen đến nơi đây, nâng niu chúa lên cao trên khúc cây ấy, trong khi bốn chim khác bay phía dưới và mỗi bên. Thấy chúng, các Tỷ-kheo lại hỏi bậc Đạo Sư về bầy chim và Ngài đáp:
– Này các Tỷ-kheo, ngày xưa Ta có bạn là một chim sơn ca chúa tên là Punnamukha, và truyền thống trong gia tộc chim ấy là như vầy.
Để đáp lại câu hỏi của các Tỷ-kheo như trước, Ngài bảo:
*
Trên sườn Đông của dãy Tuyết Sơn, chúa tể của núi đồi, là những dòng suối xanh biếc, bắt nguồn từ những sườn núi thoai thoải, trong một vùng thơm ngát, mê hồn, sáng tươi, diễm lệ với hoa sen nở rộ đủ màu xanh, trắng, sen bách diệp, súng trắng và cây hoa thần tiên, một miền bát ngát mỹ miều với đủ loại kỳ hoa dị thảo, cây leo, vang vọng tiếng thiên nga, vịt, ngỗng, có từng đoàn ẩn sĩ khổ hạnh, những vị có đủ thần thông biến hóa, lại có các thần linh, ma quỷ, dạ-xoa, yêu quái, nhạc thần, tiên nữ và mãng xà.
Chính trong một khu rừng kỳ ảo như vậy sơn ca chúa Punnamukha đã cư trú. Giọng sơn ca thật du dương êm ái, chính đôi mắt tươi vui ấy là đôi mắt của con chim say sưa với nhiều hoan lạc. Ba ngàn năm trăm chim mái theo hộ tống chim sơn ca Punnamukha này. Cũng vậy, có hai con chim vừa ngậm khúc cây trong mỏ và đặt Punnamukha ở giữa vừa bay lên không gian, vì sợ chim chúa phải chịu mệt nhọc…
Thuở ấy chim Punnamukha được đàn chim này hộ tống ban ngày, đã ca ngợi chúng như vầy:
– Các hiền muội thật đáng tuyên dương, hành động này của các hiền muội rất phù hợp với các mệnh phụ cao sang, vì các hiền muội đã phụng sự chúa công mình.
Lúc ấy, thực ra sơn ca Punnamukha đến gần nơi chim Kunàla đang đậu, và đàn chim hầu cận chim Kunàla đã thấy chim kia, trong khi chim ấy còn ở đằng xa, chúng kéo lại gần chim Punnamukha và cầu thân như vầy:
– Này Hiền hữu Punnamukha, chim Kunàla là một con chim hung bạo với giọng lưỡi thô tục. Có lẽ nhờ hiền hữu giúp đỡ, chúng tôi may ra mới nghe được lời nói tử tế của vị ấy.
– Thưa các quý nương, có lẽ chúng ta làm được việc ấy.
Nói vậy xong, chim ấy đến gần Kunàla, sau lời chào hỏi ân cần, chim ấy cung kính đậu một bên và nói với Kunàla như vầy:
– Này Hiền hữu Kunàla, tại sao Hiền hữu đối xử tàn tệ với các quý nương này mặc dù họ giữ phẩm hạnh tốt đẹp? Hiền hữu Kunàla, ta nên nói lời dịu ngọt ngay cả với các nữ nhân có lời lẽ thiếu tao nhã, huống hồ đối với các quý nương thanh cao thế này.
Khi chim ấy nói vậy xong, Kunàla liền phỉ báng Punnamukha như sau:
– Này quân khốn nạn kia, hãy chết đi, chết tiệt cả đi. Ai lại giống như ngươi cứ mềm lòng trước lời van xin của nữ giới?
Khi bị khiển trách như vậy, chim Punnamukha liền bỏ đi. Rồi chẳng bao lâu sau đó, Punnamukha lâm bệnh nặng, và chịu đau đớn kịch liệt vì chứng xuất huyết, làm chim gần chết. Bầy chim hầu cận sơn ca Punnamukha liền suy nghĩ: “Sơn ca này bị bệnh nặng, chắc là phải được vực dậy từ căn bệnh này”.
Nghĩ vậy, chúng liền rời bỏ chim ấy một mình và kéo đến gần chim Kunàla.
Kunàla nhìn chúng bay lại từ xa, khi thấy chúng liền hỏi:
– Lũ khốn nạn kia, chúa của bây đâu?
– Hiền hữu Kunàla, chim Punnamukha bị bệnh. Có lẽ chim ấy phải được vực dậy từ cơn bệnh này.
Khi chúng nói vậy xong, chim Kunàla nguyền rủa chúng:
– Hãy chết đi, lũ khốn nạn kia, chết tiệt đi, chúng bây là lũ trộm cắp, lừa đảo, vô tâm, phù phiếm, bạc nghĩa vong ân như gió cuốn đi nơi nào bây muốn.
Nói vậy xong, chim ấy đến gần nơi sơn ca Punnamukha nằm và nói như sau:
– Chào Hiền hữu Punnamukha.
– Chào Hiền hữu Kunàla – Chim kia đáp.
Sau đó, chim Kunàla dùng đôi cánh và mỏ ôm lấy Punnamukha và vừa nâng bạn lên, vừa cho uống đủ thứ thuốc. Nhờ thế, bệnh tình của sơn ca đã thuyên giảm. Khi chim Punnamukha đã khoẻ mạnh, bầy chim bay trở về và Kunàla cho chim Punnamukha ăn quả rừng trong vài ngày, đến khi bạn đã hồi sức, chim chúa bảo:
– Này Hiền hữu, nay đã bình phục, hãy tiếp tục sống với đàn chim hộ tống bạn, còn ta sẽ trở về nơi cư trú của ta.
Lúc ấy Punnamukha bảo bạn:
– Chúng đã bỏ ta khi ta lâm trọng bệnh và bay đi nơi khác. Ta không cần bọn lừa đảo ấy nữa.
Nghe vậy, Bậc Đại Sĩ đáp:
– Này Hiền hữu, ta sẽ kể cho bạn nghe về tính độc ác của nữ giới.
Rồi ngài ôm lấy Punnamukha và đưa đến Thung Lũng Đỏ trên sườn Tuyết Sơn, đậu trên một tảng hồng thạch tín dưới gốc cây Sàla tỏa rộng bảy dặm đường, trong lúc Punnamukha và đám tùy tùng đậu bên cạnh. Khắp cả vùng Tuyết Sơn vang lên lời bố cáo của chư Thiên:
– Hôm nay điểu vương Kunàla an tọa trên phiến hồng thạch ở Tuyết Sơn sẽ thuyết Pháp với vẻ kỳ diệu của một vị Phật. Xin các vị lắng tai nghe ngài.
Nhờ bố cáo như vậy, lần lượt chư Thiên ở sáu tầng trời Dục giới đều nghe và tụ họp lại nhiều sơn thần, rắn thần, kim sí điểu (chim thần cánh vàng), kên kên cũng loan báo sự kiện trên. Thời ấy thứu vương Ànanda cùng với đoàn tùy tùng mười ngàn kên kên trú ngụ tại đỉnh Thứu Sơn. Khi nghe tin chấn động này, chim ấy suy nghĩ: “Ta sẽ đi nghe thuyết Pháp”. Rồi cùng đàn chim hộ tống đến đậu riêng một nơi.
Ẩn sĩ Ànanda đã đắc năm Thắng trí đang ở vùng Tuyết Sơn cùng đoàn đệ tử gồm mười ngàn ẩn sĩ, khi nghe tin chư Thiên loan truyền, liền suy nghĩ: “Chúng bảo nhau hiền hữu Kunàla sẽ nói về các lỗi lầm của nữ giới, ta cũng phải đi nghe bạn thuyết giảng”. Rồi được một ngàn vị khổ hạnh hộ tống, vị ấy dùng thần thông du hành đến đó và ngồi riêng một nơi. Thế là đã có một hội chúng họp lại đông như vậy để nghe Phật pháp.
Lúc ấy Bậc Đại Sĩ, với trí kiến của một vị nhớ lại cái tiền thân của mình, lấy Punnamukha làm nhân chứng, kể lại một trường hợp trong tiền kiếp liên hệ với lỗi lầm của nữ giới.
*
Bậc Đạo Sư nói để làm sáng tỏ vấn đề:
Thời ấy chim Kunàla nói với sơn ca Punnamukha, vừa mới được vực dậy từ giường bệnh:
– Này Hiền hữu Punnamukha, ta đã thấy Kanhà, một nữ nhân có hai cha và năm chồng, lại còn luyến ái một nam nhi thứ sáu là một gã lùn có đầu thụt vào cổ và què chân nữa.
Ở đây chúng ta cũng có thêm một vần kệ:
1. Chuyện cổ, Kan-hà, được kể rằng:
Cả năm hoàng tử gả cho nàng,
Tham lam, nàng vẫn còn ham muốn
Một gã gù lưng, gái điếm đàng!
– Này Hiền hữu Punnamukha, ta đã thấy trường hợp một nữ ẩn sĩ khổ hạnh tên Saccatapàvì sống trong nghĩa địa và bỏ cả buổi ăn thứ tư, song lại phạm tội lỗi với một thợ vàng.
– Này Hiền hữu Punnamukha, ta đã chứng kiến trường hợp nàng Kàkàti, vợ của vua Venateyya, sống giữa biển cả, tuy thế đã phạm tội lỗi với nhạc công Natakuvera (Tiền thân số 327, tập III).
– Này Hiền hữu Punnamukha, ta đã thấy nàng tóc vàng Kurangavì, mặc dù yêu Elakamàra, lại phạm tội lỗi với Chalangakumara và Dhanantevàsì.
Ta cũng biết chuyện mẹ của Brahmadatta đã bỏ vua Kosala và phạm tội lỗi với Pancàlacanda ra sao.
Các người này cùng nhiều nữ nhân khác đã theo tà dục, ta không nên đặt lòng tin vào họ hoặc ca ngợi họ. Ví như quả đất có khuynh hướng vô tư đối với toàn thế giới, đem lại tài sản cho mọi loài, cung cấp mái ấm cho mọi người (tốt cũng như xấu) chịu đựng tất cả, không hề rung động, không gì lay chuyển, đối với nữ giới cũng phải như vậy. Đàn ông không nên tin tưởng họ.
2. Sư tử sống bằng máu thịt tươi,
Dùng năm móng sắc xé con mồi,
Tìm vui trong nỗi đau loài khác
Cẩn thận! Nữ nhân cũng một nòi!
– Này Hiền hữu Punnamukha. Thực vậy, bọn súc sinh này không chỉ là bọn gái giang hồ, điếm đàng, đầu đường xó chợ, chúng không lẳng lơ đĩ thỏa cho bằng sát nhân. Ta muốn nói đến bọ gái đứng đường buôn hương bán phấn này. Chúng giống như quân cường đạo với cuộn tóc vàng kết lại, chúng như thuốc độc, như lũ lái buôn tự khoe mình, quanh co như sừng dê, miệng lưỡi độc địa như loài rắn, như cái hố có nắp đậy, tham lam vô tận như địa ngục, khó làm thỏa mãn như quỷ cái, ngốn ngấu mọi loài như Diêm vương, tàn phá mọi sự như ngọn lửa, cuốn trôi mọi vật ở trước nó như dòng sông; như cơn gió thổi tới nơi nào nó muốn, không biết phân biệt gì như đỉnh núi Neru, kết trái quanh năm như loài cây độc.
Ở đây lại có thêm một vần kệ nữa:
3. Như độc dược, quân cướp bạo tàn,
Quanh co như gạc của sơn dương,
Mãnh xà hai lưỡi là loại chúng,
Chực sẵn khoe khoang tựa lái buôn.
4. Giết hại như là hố đậy che,
Như mồm địa ngục, thỏa không hề,
Như loài quỷ dữ tham vô độ,
Thần chết mang theo mọi vật kia.
5. Ngốn ngấu khác đâu ngọn lửa nồng,
Mạnh như hồng thủy hoặc cuồng phong,
Như Ne-ru đỉnh màu vàng chói
Thiện ác không hề biết biệt phân.
6. Não hại như cây độc sát nhân,
Chúng luôn tàn phá cả năm phần,
Gia tài sự nghiệp đều tiêu tán,
Phung phí bạc vàng, mọi bảo trân.
*
Chuyện công chúa Kanhà
Truyền thuyết kể rằng thời xưa, vua Brahmadatta ở xứ Kàsi nhờ có quân hùng tướng mạnh chiếm quốc độ Kosala, giết vua kia và cướp vị chánh hậu lúc ấy đang có thai, đưa về Ba-la-nại và phong bà làm vương phi. Về sau bà sinh một gái, và vì vua này không có con trai hay gái gì cùng huyết thống với mình, nên vô cùng hoan hỷ và phán:
– Này mỹ hậu, hãy chọn một điều ước trẫm ban tặng ái khanh.
Bà nhận điều ước nhưng chưa lựa chọn. Bấy giờ họ đặt tên công chúa là Kanhà.
Vừa khi nàng lớn lên, mẫu hậu bảo:
– Này con yêu quý, phụ vương đã ban mẹ một điều ước, mẹ đã nhận song còn trì hoãn sự lựa chọn. Nay con hãy chọn điều gì con thích.
Do dục tình phát triển quá độ phá tan nỗi e thẹn của một thiếu nữ, nàng nói với mẹ:
– Con không thiếu thứ gì cả. Xin phụ vương hãy triệu tập một đại hội để kén phò mã cho con.
Mẫu hậu kể lại chuyện này với vua. Vua phán:
– Hãy cho công chúa thứ gì nàng muốn.
Và vua ban lệnh truyền mở hội kén phò mã. Trong sân chầu, một đám nam nhi tụ tập phục sức cực kỳ lộng lẫy. Kanhà cầm một giỏ hoa trong tay, đứng nhìn từ cánh cửa lầu thượng và không hài lòng về một chàng trai nào cả.
Lúc ấy Ajjuna, Nakula, Bhìmasena, Yudhitthila, Sahadeva, thuộc dòng vua Pàndu, là năm hoàng tử của vua này, sau khi học tập đủ các học thuật tại Takkasilà với một vị giáo sư lừng danh thế giới, đang lãng du đây đó với ý định tìm hiểu thông suốt các phong tục địa phương, và vừa đến Ba-la-nại.
Khi nghe tin loan báo vang dậy khắp kinh thành, và hỏi thăm để biết chuyện gì đang xảy ra, họ liền đến đứng cả năm người thành một hàng, trông hình dáng như năm pho tượng bằng vàng. Thoạt nhìn thấy họ, Kanhà say mê luôn cả năm, liền ném vòng hoa lên đầu của năm chàng trai khi họ đứng trước mặt nàng và bảo:
– Tâu mẫu hậu, con xin chọn cả năm chàng.
Hoàng hậu trình việc này với vua. Vì vua đã ban cho nàng điều ước, nên không thể nói: “Con không được làm việc này”, nhưng lòng vua vô cùng phiền muộn. Tuy thế, sau khi hỏi nguồn gốc năm chàng là con ai, và khi biết đó là con vua Pàndu, vua nghênh tiếp năm chàng vô cùng trọng thể và gả công chúa làm vợ cả năm chàng.
Nhờ mãnh lực của dục tình nồng nhiệt, nàng chiếm được tình yêu của năm chàng vương tử trong cung điện bảy tầng của nàng.
Bấy giờ nàng có một kẻ hầu cận vừa gù, vừa què và dù nàng đã chiếm trọn con tim của năm vương tử, ngay khi năm chàng đã ra khỏi cung đình, nàng tìm được cơ hội và bị lửa dục nung nấu, nên đã phạm tội lỗi với gã nô lệ lưng gù kia.
Trong khi trò chuyện với gã, nàng nói:
– Không có ai được ta yêu quý bằng chàng. Ta sẽ giết năm vương tử này và lấy máu từ cổ họ xoa vào đôi chân chàng.
Khi nàng bầu bạn với vị thái tử trong năm vị kia, nàng thường bảo:
– Chàng thân yêu đối với thiếp hơn bốn chàng kia. Vì chàng, thiếp sẽ hy sinh cả đến tính mạng mình. Khi phụ vương băng hà, thiếp sẽ trao quốc độ cho riêng chàng.
Nhưng khi bầu bạn với các chàng kia, nàng cũng làm y hệt như vậy. Các chàng vô cùng đẹp lòng vì nàng, và suy nghĩ: “Nàng thương yêu chúng ta và nhờ đó vương vị này sẽ thuộc về ta”.
Một hôm nàng bị bệnh, họ tụ tập quanh nàng, một người xoa đầu, kẻ xoa tay chân, trong khi gã nô lệ ngồi dưới chân nàng. Với vị thái tử Ajjuna đang xoa đầu nàng, nàng lấy đầu ra hiệu ngầm bảo: “Không ai được thiếp thương yêu hơn chàng. Bao lâu thiếp còn sống, thiếp sẽ sống vì chàng và khi phụ vương từ trần, thiếp sẽ trao vương quốc cho chàng”, và thế là nàng chiếm trọn tim chàng.
Đới với các người kia, nàng cũng làm dấu bằng tay chân với ý nghĩa như vậy. Nhưng đối với gã gù lưng, nàng làm dấu bằng lưỡi với ngụ ý: “Chỉ có chàng là người duy nhất được ta yêu quý. Ta chỉ sống vì chàng”.
Nhờ những điều nàng đã nói trước kia, tất cả bọn họ đều hiểu các dấu hiệu này có ý nghĩa gì. Nhưng trong khi mỗi người nhận ra dấu hiệu dành riêng cho mình, vương tử Ajjuna vừa thấy các dấu hiệu tay, chân và lưỡi ấy liền suy nghĩ: “Trong trường hợp ta cũng như với các người khác, chắc phải có điều gì đó nàng muốn chứng tỏ bằng dấu hiệu kia, vậy đối với gã lưng gù này hẳn cũng có một thân tình nào đây”.
Thế rồi vừa đi ra ngoài với các em, chàng hỏi:
– Các hoàng đệ có thấy công chúa năm chồng này làm dấu với ta bằng đầu nàng chăng?
– Thưa vâng, có thấy.
– Các em có hiểu ý nghĩa của nó chăng?
– Thưa không.
– Ý nghĩa của nó là như vầy, như vầy. Thế các em có biết ý nghĩa dấu hiệu bằng tay chân của nàng với các em chăng?
– Thưa vâng, chúng em có biết.
– Nàng cũng làm dấu cho ta như vậy. Thế các em có biết ý nghĩa dấu hiệu nàng bảo gã lưng gù bằng lưỡi chăng?
– Chúng em không biết.
Chàng liền bảo họ:
– Nàng cũng phạm tội với gã đó.
Vì họ không tin chàng, chàng bảo gã lưng gù đến và hỏi gã, gã liền kể cho chàng mọi chuyện. Khi họ nghe gã nói, họ đều mất hết lòng say mê đối với nàng và bảo nhau:
– Ôi rõ ràng giống đàn bà thật xấu xa tội lỗi. Vừa rời khỏi các nam nhi như chúng ta vốn quý tộc cao sang và đầy đủ phúc phận, nàng đã phạm tà hạnh với một gã lưng gù gớm ghiếc, đáng ghê tởm như thế này. Ai có trí tuệ lại ham thích kết duyên với đám nữ nhi vô sĩ gian tà như vậy?
Sau khi lần lượt phỉ báng nữ nhân như trên, năm vương tử suy nghĩ: “Chúng ta đã chán chê đời sống vợ chồng rồi”. Các vị lui về ở ẩn tại vùng Tuyết Sơn, và sau khi đã thành tựu pháp Thiền quán Kasina, lúc mạng chung, các vị đi theo nghiệp của mình.
Chim chúa Kunàla là vương tử Ajjuna, chính vì lý do ấy, khi nêu ra điều gì bản thân đã thấy, chim ấy đều bắt đầu câu chuyện với lời: “Ta đã thấy”. Khi kể lại những việc khác mà chim ấy đã thấy thời xưa, chim ấy cũng dùng những lời ấy.
Sau đây là phần giải thích một sự việc được nêu ra ở chuyện khởi đầu.
*
Chuyện nữ khổ hạnh Saccatapàvì
Ngày xưa, tương truyền có một nữ khổ hạnh bạch y tên là Saccatapàvì xây một thảo am ở một nghĩa địa gần Ba-la-nại. Trong lúc sống ở đây, nàng nhịn luôn bốn bữa ăn trong số năm bữa, khắp kinh thành, danh vọng nàng sáng chói gần xa chẳng khác nào đôi vầng nhật nguyệt. Dân chúng thành Ba-la-nại nếu có hắt hơi hay vấp ngã đều bảo: “Cầu phúc cho Saccatapàvì!”
Bấy giờ vào ngày đầu một lễ hội, một số thợ vàng dựng lều tại một nơi dân chúng tụ tập, và đem theo cá thịt rượu mạnh, dầu thơm, tràng hoa, v.v. rồi bắt đầu tiệc rượu say sưa.
Lúc ấy một gã thợ rèn nghiện rượu đang lúc nôn tháo, đã kêu lên “Cầu phúc cho Saccatapàvì!”
Có người khôn ngoan trong bọn họ bảo:
– Ôi thật là điên rồ mù quáng, chú đang tôn trọng một nữ nhân tính khí thay đổi bất thường. Chú thật là đồ điên!
Gã đáp:
– Này bạn, đừng nói vậy, nếu không sẽ phạm tội đọa vào địa ngục đấy.
Người khôn ngoan liền bảo:
– Đồ điên, hãy câm mồm lại. Hãy đánh cuộc với ta một ngàn đồng vàng, trong bảy ngày kể từ nay, cứ ngồi tại chính nơi đây, ta sẽ giao tận tay chú nàng Saccatapàvì phục sức diễm lệ cùng liên hoan rượu mạnh và ta cũng sẽ say sưa đánh chén với nàng. Bọn nữ nhi đều tính tình bất định như thế.
Gã kia đáp:
– Bạn không thể có khả năng làm việc ấy đâu.
Và gã đánh cuộc một ngàn đồng vàng.
Thế rồi thông báo với đám thợ vàng kia xong, sáng sớm hôm sau chàng trai giả dạng một vị khổ hạnh tiến vào nghĩa địa, không xa nơi nàng cư ngụ và đứng chiêm bái mặt trời. Nàng thấy chàng lúc bắt đầu đi khất thực, và suy nghĩ: “Chắc chắn đây là một vị khổ hạnh có thần thông. Ta ở một bên nghĩa địa, còn Ngài ở ngay chính giữa: tâm Ngài chắc hẳn thuần tịnh như bậc Thánh. Ta muốn tỏ lòng ngưỡng mộ Ngài”.
Thế là nàng đến gần chàng đảnh lễ, nhưng chàng không nhìn cũng không nói gì. Ngày hôm sau chàng cũng cứ làm vậy. Nhưng qua ngày thứ ba, khi nàng đảnh lễ, chàng nhìn xuống và bảo:
– Hãy đi ngay.
Qua ngày thứ tư, chàng ân cần nói với nàng:
– Nàng đi khất thực có mệt nhọc chăng?
Nàng nghĩ thầm: “Ta đã được chào hỏi ân cần rồi” và hoan hỷ ra đi.
Ngày thứ năm nàng lại nhận được một lời chào hỏi ân cần hơn và sau khi ngồi nghỉ chốc lát, nàng đảnh lễ chàng và ra đi.
Nhưng vào ngày thứ sáu, nàng lại đến đảnh lễ chàng khi chàng ngồi đó. Chàng nói:
– Này hiền muội, có tiếng gì ồn ào ca nhạc vang lừng ở Ba-la-nại hôm nay thế?
Nàng đáp:
– Bạch Thánh giả, Ngài không biết có mở lễ hội trong thành và đây là tiếng những người đang liên hoan tại đó ư?
Giả vờ không biết, chàng bảo:
– Phải, chắc đây là tiếng ồn ta nghe được.
Rồi chàng lại hỏi:
– Này hiền muội, nàng nhịn ăn bao nhiêu bữa?
– Bạch Thánh giả, bốn. Còn Thánh giả nhịn bao nhiêu bữa? Nàng hỏi.
– Này hiền muội, bảy.
Nhưng đó là chàng nói dối, vì chàng thường ăn suốt ngày đêm. Rồi chàng lại hỏi:
– Nàng đã thọ giới bao nhiêu năm?
Nàng nói:
– Mười hai năm, thế Thánh giả xuất gia bao lâu?
– Đây là năm thứ sáu – Chàng đáp.
Rồi chàng lại hỏi:
– Này hiền muội, nàng đã đạt đến thanh tịnh của bậc Thánh chưa?
– Bạch Thánh giả, chưa, còn Thánh giả?
– Chúng ta đều chưa đạt cả – Chàng đáp.
– Này hiền muội, chúng ta không hưởng thọ dục lạc cũng không thành tựu viễn ly lạc. Vậy thì địa ngục nóng bỏng có nghĩa gì với ta chứ? Chúng ta hãy theo con đường của đại chúng đi: ta sẽ trở thành gia chủ và vì ta có sẵn tài sản của mẹ ta, ta sẽ chẳng thiệt hại gì cả.
Khi nghe chàng nói và do thiếu tịnh tín bất động, nàng đem lòng say mê chàng, liền nói:
– Thưa ngài, tiện nữ cũng thấy tâm bất mãn, nếu ngài không từ chối, thiếp xin theo về ở nhà cùng chàng.
Chàng đáp ngay:
– Ta không từ chối nàng đâu, nàng sẽ là vợ ta.
Sau đó chàng đưa nàng về thành và sống chung với nàng. Khi cùng nàng đến tửu quán, chính chàng uống rượu mạnh và giao nàng vào tay đám bạn để chè chén say sưa tồi tệ hơn nữa. Vì thế gã trai kia thua cuộc mất một ngàn tiền vàng, còn nàng được chàng thợ vàng này ban cho vô số con trai con gái. Thời ấy chim Kunàla là người thợ vàng và khi kể chuyện này, chim bắt đầu bằng những lời: “Ta biết”.
Chuyện thứ hai là một cổ tích được kể đầy đủ trong Tiền Thân Kàkati (số 327, chương IV, tập III). Vào thời ấy, Kunàla là chim Garuda (Kim sí điểu), và vì lý do này, khi chứng minh điều gì thấy tận mắt, chim ấy bắt đầu bằng lời: “Ta biết”.
*
Chuyện công chúa Kurangavi
Trong chuyện thứ ba, một thuở nọ, vua Brahmadatta giết vua Kosala và chiếm quốc độ. Cướp mất hoàng hậu đang có thai, vua trở về Ba-la-nại, và dù biết rõ tình trạng của bà, vua vẫn phong bà làm hoàng hậu. Đến kỳ khai hoa nở phụng, bà sinh một hoàng nam giống như một bức tượng vàng ròng.
Bà suy nghĩ: “Khi con ta lớn lên, vua Ba-la-nại sẽ bảo: “Nó là con trai của kẻ thù ta. Nó có nghĩa gì với ta đâu? Và sẽ giết nó. Nhưng không, ta không thể để con ta chết vì tay kẻ thù”. Vì thế bà bảo nhũ mẫu:
– Này chị, hãy lấy vải thô quấn hài nhi này và đi quẳng vào nhà xác.
Nhũ mẫu làm theo lời bà, và sau khi tắm rửa xong, liền về nhà.
Còn vua Kosala, sau khi từ trần, tái sinh làm vị thần hộ mạng hài nhi ấy, và do thần lực xui khiến, một con dê cái của một mục tử đang nuôi đàn dê ở vùng này, thấy đứa bé liền đem lòng thương yêu, cho nó bú sữa xong, đi quanh quẩn một lát rồi trở về hai, ba hoặc cả bốn lần để cho nó bú.
Người chăn dê thấy con dê đi quanh đó, liền đến nơi, thấy đứa bé cũng đem lòng thương yêu và ẫm nó về cho vợ. Bấy giờ bà vợ không có con nên không có sữa cho nó bú. Vì thế con dê cái tiếp tục cho nó bú.
Từ hôm ấy, cứ mỗi ngày đều có hai ba con dê chết. Người chăn dê suy nghĩ: “Nếu đứa bé này được ta tiếp tục chăm sóc thì tất cả đàn dê đều chết. Nó có nghĩa gì với ta chứ?” Sau đó y đặt nó vào một nồi đất, đậy lên một cái nắp và xoa lên mặt nó đầy bột đậu không thừa một kẽ hở nào, rồi thả nó xuống sông.
Đứa bé do dòng nước cuốn trôi đến bờ thấp gần cung vua thì được một kẻ vá đồ cũ hạ đẳng trông thấy khi đang đứng rửa mặt với vợ. Y vội vàng chạy đến kéo cái nồi ra khỏi nước và đặt trên bờ. Y suy nghĩ: “Ta lấy được cái gì đây?”. Vừa mở nồi ra, y vội thấy đứa bé. Vợ y cũng không có con nên sinh lòng thương yêu nó. Vì thế bà đem nó về nhà săn sóc.
Khi đứa bé lên bảy tám tuổi, cha mẹ nó thường đem nó theo mỗi khi đến cung vua. Lúc được mười sáu tuổi, chàng trai thường đến cung vua để vá đồ cũ. Vua và hoàng hậu có một công chúa tên Kurangavì là một cô gái nhan sắc phi thường. Từ lúc nàng trông thấy chàng trai, nàng đem ra luyến ái chàng và không còn để ý đến ai nữa, nàng thường đi đến nơi chàng làm việc. Do thường xuyên gặp gỡ nhau, họ say mê lẫn nhau và lén lút phạm tà hạnh trong ngự viên. Dần dần bọn thị tỳ tâu lên vua cha chuyện ấy.
Vua nổi trận lôi đình triệu tập các cận thần lại phán:
– Tên hạ đẳng này đã phạm các tội như vầy như vầy. Các khanh xem phải làm gì để trị nó đi.
Các cận thần tâu:
– Tội nó nặng lắm, sau khi buộc nó chịu mọi hình phạt, ta phải xử tử nó.
Thuở ấy, cha của chàng trai là vua Kosala đã trở thành vị thần hộ mạng của chàng, liền nhập vào thân mẹ chàng, nên nhờ thần lực ấy, bà đến gần vua và thưa:
– Tâu Đại vương, chàng trai này không phải là kẻ hạ đẳng đâu. Nó là con trai thiếp sinh ra với vua Kosala. Thiếp đã nói dối Đại vương khi bảo rằng con thiếp đã chết. Vì biết rằng nó là con trai của kẻ thù Đại vương, nên thiếp đã sai một nhũ mẫu đem nó bỏ vào nhà xác. Sau đó một người chăn dê chăm sóc nó, nhưng khi cả bầy dê bắt đầu chết, y đã thả nó xuống sông và do dòng nước cuốn đến đây, nó được kẻ hạ đẳng vá đồ cũ trong cung này tìm thấy và nuôi nấng. Nếu Đại vương không tin thiếp, xin cứ gọi những kẻ này vào và hỏi họ.
Vua triệu đám người ấy vào, bắt đầu với nhũ mẫu; khi chất vấn, biết rõ các sự kiện do bà kể, vua rất hân hoan thấy chàng trai thuộc dòng quý tộc, liền ra lệnh cho chàng đi tắm rửa, trang điểm thật lộng lẫy và gả công chúa cho chàng. Thuở ấy, do việc chàng đã gây ra cái chết của đàn dê, chàng được đặt tên Elakamàra (Bả thuốc giết dê).
Sau đó, vua giao cho chàng xe cộ, một đạo quân và bảo chàng lên đường:
– Hãy đi làm chủ quốc độ của phụ vương con ngày trước.
Vì thế chàng ra đi cùng với Kurangavì và được tôn lên ngôi báu. Lúc ấy vua Ba-la-nại suy nghĩ: “Con ta chẳng được học hành gì cả”, nên truyền Chalangakumara đến làm thầy dạy chàng các môn học thuật. Khi nhận vị này làm sư trưởng, chàng lại phong ông chức đại tướng. Dần dà, Kurangavì thông gian với ông. Vị đại tướng có một quan hầu cận tên Dhanantevàsì và ông nhờ kẻ ấy trao các món y phục cùng nữ trang khác cho Kurangavì, nàng cũng thông gian với kẻ ấy. Bọn ác nhân thật là hư hỏng vô đạo như vậy nên ta không thể tán dương họ. Bậc Đại Sĩ dạy điều này khi ngài kể một chuyện quá khứ, vì thuở ấy ngài là Chalangakumàra, do đó sự kiện ngài kể là một việc chính mắt ngài thấy.
*
Chuyện vương hậu Kosala.
Trong chuyện thứ năm này có một thời vua Kosala chiếm quốc độ Ba-la-nại và phong bà chánh hậu đang có thai của vua ấy lên ngôi chánh cung rồi trở về kinh đô của mình. Về sau, bà sinh ra một vương tử. Vì không có con riêng của mình, vua rất yêu quý hài nhi và truyền dạy bảo chàng mọi môn học thuật.
Khi chàng trưởng thành, vua cha truyền chàng đi làm chủ quốc độ thuộc quyền cha chàng thuở trước. Chàng ra đi ngự trị xứ ấy.
Sau đó mẫu hậu chàng bảo bà nhớ con trai liền xin phép vua Kosala khởi hành đến Ba-la-nại cùng một đoàn hộ tống đông đúc và trú chân ở một thị trấn giữa hai nước. Tại đây có một thanh niên Bà-la-môn tuấn tú tên gọi Pañcàlacanda đem dâng hoàng hậu một tặng vật. Vừa thấy kẻ ấy, bà liền say mê và phạm tà dục với y.
Sau khi ở lại đó vài ngày, bà đến Ba-la-nại thăm hoàng tử. Lúc trở về, bà lại trú chân ở tại thị trấn nọ và sau nhiều ngày thông gian với tình nhân, bà trở về thành Kosala. Chẳng bao lâu sau, bà lấy cớ này cớ nọ để đi thăm con, bà xin phép vua và đến ở nửa tháng trong thị trấn kia để thông gian với tình nhân. Bọn nữ nhi đầy tội lỗi và giả dối như vậy đó.
Trong khi kể chuyện quá khứ này, ngài bắt đầu với những lời: “Chuyện này cũng có ý nghĩa ấy.”
Về sau với nhiều cách biểu lộ sự khéo léo trong khi thuyết Pháp, ngài nói:
– Này hiền hữu Punnamukha, có bốn thứ tỏ ra tai hại khi gặp hoàn cảnh; ta bảo bốn thứ này không được đặt vào nhà láng giềng, đó là: bò đực, bò cái, cỗ xe và vợ. Một người có trí phải tránh xa việc này ra khỏi nhà mình:
7- 8. Chớ cho hàng xóm mượn bò xe,
Chớ gửi vợ ta đến bạn bè,
Bò đực chết vì làm quá độ,
Phá xe vì chúng thiếu tay nghề,
Sữa bò cái vắt cho khô cạn,
Vợ đến bà con hỏng thói lề!
Này hiền hữu Punnamukha, có sáu điều tỏ ra tai hại khi gặp hoàn cảnh: một cái cung thiếu dây, một cô vợ ở gia đình bà con, một chiếc thuyền (không lái), một chiếc xe gãy trục, một bạn thân vắng mặt, một bạn đường độc ác, đôi khi thật tai hại.
Này hiền hữu Punnamukha, thật vậy, có tám duyên cớ khiến đàn bà khinh bỉ chồng: đó là do nghèo khó bệnh tật, già cả, nghiện rượu, ngu đần, phóng túng, bôn ba đủ mọi thứ việc, xao lãng bổn phận đối với vợ. Thật vậy, đàn bà khinh bỉ chồng mình vì tám duyên cớ ấy.
Ở đây lại thêm vần kệ này:
9. Bệnh, nghèo, già, nghiện rượu, buông lung,
Việc quá bôn ba, hoặc độn đần,
Hoặc thấy chồng không lo bổn phận,
Vợ thường chẳng trọng đấng phu quân.
Thật vậy, do chín nguyên nhân này, một nữ nhân phạm lỗi lầm: giả sử nàng thích lui tới các công viên, vườn hoa, bờ sông, thích thăm viếng nhà bà con hoặc người xa lạ, ham mê trang điểm y phục của hạng quý phái, hoặc nàng nghiện rượu mạnh, ưa nhìn quanh quẩn bên mình, hoặc đứng tựa cửa, thì này ta bảo, do chín duyên cớ này, một nữ nhân phạm lỗi lầm.
Ở đây lại thêm vần kệ này:
10. Đàn bà ưa mặc áo quần sang,
Nghiện rượu, rong chơi, dạ vẫn ham
Vườn cảnh, công viên, trên bến nước,
Đến nhà người lạ hoặc thân bằng.
Nàng thường đến đứng bên khung cửa,
Lơ đãng nhìn quanh quẩn mặt đàng,
Theo chín cách này hư hỏng sớm,
Lạc xa đường đức hạnh hiền lương.
Thật vậy, này hiền hữu Punnamukha, nữ nhân làm xiêu lòng nam nhi bằng bốn mươi cách khác nhau: Nàng uốn người lên, nàng cong người xuống, nàng nhảy tung tăng, nàng làm vẻ e thẹn, nàng bóp chặt các đầu ngón tay, nàng đặt chân này lên chân kia, nàng lấy que cào mặt đất, nàng tung chàng trai lên rồi hạ xuống, nàng nô đùa và khiến chàng trai nô đùa, nàng hôn chàng và bảo chàng hôn nàng, nàng ăn và cho chàng ăn, nàng trao tặng hoặc cầu xin vật gì đó, nàng nhại lại những gì chàng làm, nàng nói với giọng lúc bổng lúc trầm, nàng cất tiếng khi rõ ràng khi khó hiểu, nàng lôi cuốn chàng bằng múa ca đàn địch, bằng những giọt nước mắt hay cách làm dáng, hoặc với áo quần lộng lẫy, nàng cười cợt hay trừng mắt, nàng rủ áo hay vén xiêm, khoe đùi ra hoặc che đùi lại, nàng khoe ngực khoe nách, khoe rốn, nàng nhắm mắt, nàng nhướng mày, nàng mím môi, nàng lè lưỡi, nàng thả lỏng hay kéo sát xiêm y, nàng buông lơi hay quấn chặt khăn trùm đầu. Quả thật nàng lôi cuốn nam nhi bằng bốn mươi cách này.
Thật vậy này hiền hữu Punnamukha, một nữ nhân hư đốn được biết rõ qua hai mươi lăm cách khác nhau: nàng ca ngợi việc chồng nàng vắng mặt, nàng chẳng thích chồng trở về, nàng chê bai chồng, nàng không lên tiếng khen chồng, nàng làm thương tổn chồng, và không làm lợi ích chồng, nàng làm những việc có hại cho chồng chứ không muốn làm gì giúp đỡ chồng, nàng mặc cả xiêm y lúc đi ngủ và nằm ngoảnh mặt làm ngơ chồng, nàng lăn lóc qua lại, gây chuyện ầm ĩ, thở dài sườn sượt, kêu đau nhức mình mẩy, thường hay đi tiểu tiện, xử sự mất nết, hễ nghe tiếng người lạ, nàng chổng tai chăm chú, nàng phung phí tài sản của chồng, nàng giao du thân mật với bạn hàng xóm, nàng hay đi lang thang ra ngoài, thơ thẩn dạo phố, nàng phạm tội ngoại tình, vì khinh bỉ chồng, nàng có nhiều tư tưởng xấu xa trong lòng.
Quả thật, này hiền hữu Punnamukha, một nữ nhân hư hỏng được biết qua hai mươi lăm cách này.
Và đây lại thêm các vần kệ cảm thán:
11. Đồng tình sự vắng mặt phu quân
Chàng bước ra đi, chẳng não lòng,
Dạ chẳng vui mừng chàng trở lại,
Chẳng bao giờ tán thán công chồng,
Đây là dấu hiệu nêu cho rõ
Lề thói thông thường ác nữ nhân.
12. Bất tuân, tính kế hại phu quân,
Làm việc không nên, bỏ lợi chồng.
Mặt ngoảnh đi, nàng nằm xuống ngủ
Bên chàng, xiêm áo phủ hoàn toàn,
Đây là dấu hiệu nàng hư đốn
Chắc chắn lộ ra thật rõ ràng.
13. Trằn trọc, chẳng nằm một lát yên,
Thở dài sườn sượt, lại kêu rên,
Hoặc nàng cứ giả vờ đau bụng,
Như muốn tiểu, nàng vẫn đứng lên,
Các dấu hiệu này người thấy rõ
Tính tình của phụ nữ hư hèn.
14. Độc ác trong hành động của nàng,
Nàng làm những việc phải can ngăn,
Nghe lời người lạ cầu ân huệ,
Tài sản chồng, nàng thật phí hoang
Để được ngoại tình, là dấu hiệu
Mọi người thấy rõ tính tà gian.
15. Bạc vàng góp nhặt bởi công chồng,
Đồ đạc chất đầy thật khổ thân,
Nàng phí phạm nhanh, cùng lối xóm
Nàng thân mật quá độ dần dần,
Chính nhờ dấu hiệu này ta biết
Tính nết gian tà của nữ nhân.
16. Hãy ngắm nàng đi dạo phố phường,
Phủ phàng đối xử với phu quân
Khinh khi thô lỗ nhất trần thế,
Chẳng ngớt ngoại tình, loạn trí tâm.
Nhờ dấu hiệu này, ta thấy rõ
Bọn hồng quần quả thật tà gian.
17. Nàng vẫn đứng ngay trước cửa nàng
Coi thường mọi phép tắc đoan trang,
Khoe thân trơ trẽn cho hành khách,
Buồn bực nhìn quanh quẩn mọi phương,
Các dấu hiệu này cho thấy rõ
Thói tà gian của bọn hồng quần.
18. Như rừng cây được gỗ làm thành,
Như các dòng sông chảy uốn quanh,
Vậy cứ tạo thời cơ thuận tiện,
Nữ nhân đều lạc lối vô minh.
19. Tạo nơi kín đáo, hợp thời cơ,
Con đường đức hạnh phải rời xa,
Nữ nhân tất cả đều hư đốn
Nếu có chốn nơi, lại đúng giờ
Ví các tình nhân kia chẳng đến,
Chúng liền phạm tội với tên gù.
20. Đàn bà phục vụ thú đàn ông,
Chớ một ai tin bọn nữ nhân,
Lòng dạ chúng thường thay đổi mãi,
Dục tham chúng lại cứ buông lung.
Nữ nhân xứng gọi người cầu lạc
Hèn mạt nhất trong đám hạ tầng,
Chúng vẫn giống như là bến tắm
Thường chung chạ với mọi nam nhân.
Hơn nữa, Ngài lại kể:
*
Chuyện vương hậu Kinnarà
Ngày xưa tại Ba-la-nại, có vị vua tên là Kandan rất khôi ngô tuấn tú, hằng ngày các cận thần đem đến dâng một ngàn hộp nước hoa. Với nước hoa này, họ làm cho cung điện thật cao sang thanh lịch. Sau đó họ chẻ các hộp ấy nhóm lửa thơm ngát và nấu thức ăn với lửa ấy.
Bấy giờ vương hậu là một nữ nhân diễm lệ có tên Kinnarà và vị tế sư của vua là Pañncalacanda, cùng tuổi với vua và rất thông tuệ. Phía trong bức tường cạnh cung vua có một cây hồng đào, cành lá sà xuống tận bức tường và một tên què dị dạng gớm ghiếc sống ở dưới bóng cây ấy.
Một hôm vương hậu Kinnarà nhìn ra cửa sổ thấy gã, liền đem lòng say mê gã. Ban đêm, sau khi đã chiếm được sự sủng ái của vua nhờ các tài quyến rũ của bà, vừa khi vua ngủ say, và thường rón rén đứng dậy sắp đặt mọi thứ cao lương mỹ vị vào một cái bát bằng vàng và đeo nó bên hông, bà hoàng đu mình qua cửa sổ nhờ một sợi dây vải, trèo lên cây hồng đào và buông mình xuống bằng một nhánh cây, bà đưa cao lương mỹ vị cho gã què ăn rồi giao hoan với gã, xong bà lại trèo lên cung điện theo cách bà đã đi xuống. Sau khi tắm gội toàn thân bằng nước hương, bà liền nằm xuống bên cạnh vua.
Theo cách này, bà thường xuyên phạm tà hạnh với gã què và vua không biết tý gì cả.
Một ngày kia, sau một lễ hội oai nghi diễu quanh kinh thành, vua đi vào cung chợt thấy tên què kia, một sinh vật đáng thương đang nằm dưới bóng cây hồng đào, và vua bảo vị tế sư:
– Khanh hãy nhìn con ma trên đất này.
– Tâu Đại vương, truyền việc gì chăng?
– Này hiền hữu, có thể nào một nữ nhân bị dục tình kích động lại muốn đến gần một sinh vật đáng ghê tởm như thế này chăng?
Nghe lời vua phán, gã què tràn đầy kiêu mạn suy nghĩ: “Vua này nói gì thế? Có lẽ vua không biết tý nào về việc hoàng hậu đến thăm ta”. Rồi chắp hai tay về phía cây hồng đào, gã la to:
– Tâu vị thần hộ mạng cây này, trừ ngài ra, không ai biết chuyện ấy cả.
Vị tế sư thấy hành vi của gã, nghĩ thầm: “Chắc chắn chánh hậu của vua nhờ cây này giúp đi xuống phạm tà hạnh với gã”.
Vì thế vị ấy tâu với vua:
– Tâu Đại vương, ban đêm Đại vương tiếp xúc với thân thể chánh hậu thì thấy như thế nào?
– Ta không nhận thấy gì cả – Vua đáp – Song vào canh giữa thân thể bà lạnh lắm.
– Thế thì tâu Đại vương, dù trường hợp các nữ nhân khác ra sao đi nữa, chánh hậu Kinnarà cũng đã thông gian với gã kia.
– Hiền hữu nói gì thế này? Lẽ nào một nữ nhân diễm lệ thế kia lại hành lạc cùng với con vật gớm ghiếc này ư?
– Vậy thì tâu Đại vương, ta thử tìm chứng cớ chuyện này.
– Trẫm chấp thuận – Nhà vua bảo.
Và sau buổi cơm tối, vua nằm xuống cạnh bà để thử việc kia. Vào giờ ngủ như thường lệ, vua giả vờ ngủ say và bà cũng hành động như trước. Vua muốn theo dõi bước chân bà, liền đứng nấp trong bóng cây hồng đào. Tên què đang giận dữ với bà hoàng và bảo:
– Tối nay nàng đến chậm quá.
Rồi gã lấy tay đánh vào chiếc vòng tai của bà, vì thế bà đáp:
– Xin lang quân chớ giận. Thiếp phải chờ nhà vua ngủ say đã chứ.
Nói vậy xong, bà làm mọi việc như thể đóng vai một người vợ trong nhà gã què. Nhưng khi gã đánh bà, chiếc vòng tai có hình đầu sư tử, rời khỏi tai bà rớt xuống chân vua. Nhà vua nghĩ thầm: “Chính cái này sẽ là vật tuyệt diệu cho ta”. Rồi vua lượm chiếc vòng dấu đi.
Sau khi phạm tà dục với tình nhân, bà trở về như trước và đi vào nằm cạnh vua. Nhà vua khước từ mọi điệu bộ gợi tình của bà và ngày hôm sau, vua truyền lệnh:
– Hoàng hậu Kinarà phải đến chầu và mang theo mọi món trang sức trẫm đã ban.
Bà đáp:
– Món nữ trang có hình đầu sư tử của ta đang để ở tiệm vàng.
Và bà từ chối đi diện kiến.
Khi lệnh vua ban ra lần thứ hai, bà đến với một chiếc hoa tai độc nhất.
Nhà vua hỏi:
– Hoa tai kia của khanh đâu?
– Ở tiệm vàng.
Vua truyền người thợ vàng đến, phán:
– Tại sao ngươi không để hoàng hậu đeo hoa tai?
– Tâu Đại vương, hạ thần không giữ hoa tai ấy.
Nhà vua nổi cơn thịnh nộ, bảo:
– Này con tiện tỳ hư đốn kia, gã thợ vàng của ngươi chắc hẳn là một người giống như ta.
Nói vậy xong, vua ném chiếc hoa tai ấy xuống trước mặt bà và bảo vị tế sư:
– Này hiền hữu, khanh đã nói đúng, hãy đi bảo chém đầu nó ngay.
Vị ấy liền đem bà giấu ở một nơi an toàn trong cung, và đến tâu trình vua:
– Tâu Đại vương, xin chớ giận hoàng hậu Kinnarà, mọi nữ nhân đều như vậy cả. Nếu Đại vương muốn thấy bọn nữ nhân vô đạo ra sao, hạ thần sẽ chỉ cho Đại vương thấy tính gian tà và lừa dối của chúng. Thôi, ta hãy cải trang và vi hành xuống thôn quê.
Nhà vua sẵn sàng chấp thuận, giao vương quốc cho mẫu hậu rồi lên đường ngao du với vị tế sư.
Khi hai vị đã đi một dặm đường và ngồi bên đường cái, thì một phú gia nọ đang mở hội đám rước dâu cho con trai, đã đặt cô dâu ngồi vào một cỗ xe đóng kín và hộ tống nàng với một đoàn tùy tùng rầm rộ. Khi thấy đám này, vị tế sư nói:
– Nếu Đại vương muốn, ngài có thể làm cho cô gái này thông gian với ngài.
– Này hiền hữu, khanh nói gì thế? Với cả đoàn tùy tùng rầm rộ này, làm sao có chuyện ấy được?
– Vậy thì xin Đại vương hãy nhìn đây.
Rồi tiến lên phía trước, ông dựng lên một bức màn giống như một túp lều không xa đường cái, để vua ở trong màn, còn chính ông ngồi bên đường khóc lóc. Lúc ấy vị phú ông thấy vậy liền hỏi:
– Tại sao hiền hữu khóc?
Ông đáp:
– Tiện nội đang thai nghén nặng nề nên tiểu đệ lên đường đưa nàng về nhà mẹ, đang lúc đi đường nàng lên cơn đau đớn khổ sở trong bức màn kia, và nàng lại không có người phụ nữ nào ở bên nàng, còn tiểu đệ thì không thể vào đó với nàng được. Tiểu đệ không biết việc sẽ ra sao nữa.
– Nàng phải có một người đàn bà ở bên cạnh. Thôi đừng khóc nữa. Ở đây có nhiều đàn bà lắm. Một người trong bọn sẽ đến với nàng.
– Vậy thì xin để tiểu thư này vào. Đây sẽ là điềm lành cho tiểu thư.
Phú ông nghĩ thầm: “Người kia nói đúng đấy. Đây sẽ là việc lành cho con dâu ta. Nó sẽ được phước sinh ra vô số con trai con gái”. Rồi ông đưa nàng vào trong đó.
Vừa bước vào màn, thoạt trông thấy vua, nàng đã say mê và phạm tà hạnh với vua, rồi vua tặng nàng một chiếc nhẫn có dấu hiệu riêng của mình.
Khi việc ấy đã xong và nàng bước ra khỏi liều, chúng bạn hỏi:
– Bà ấy sinh con gì thế?
– Một cậu trai sắc vàng óng!
Thế rồi vị phú ông đem nàng đi mất. Vị tế sư đến gặp nhà vua và nói:
– Tâu Đại vương, ngài vừa thấy ngay cả một thiếu nữ cũng đã hư hỏng như vậy. Còn nói gì các nữ nhân khác càng hư hỏng đến đâu? Xin Đại vương cho biết ngài có ban nàng vật gì không?
– Có ta ban nàng chiếc nhẫn có tín hiệu riêng của ta.
– Hạ thần quyết không cho nàng giữ vật ấy đâu.
Ông liền vội vã chạy theo bắt kịp chiếc xe và khi bọn họ hỏi:
– Thế này là nghĩa lý gì?
Ông đáp:
– Cô tiểu thư này ra đi với chiếc nhẫn mà tiện nội Bà-la-môn đặt trên gối của nàng, vậy tiểu thư hãy trả chiếc nhẫn lại đi.
Khi trao nhẫn lại, nàng cào tay vị Bà-la-môn và nói:
– Hãy cầm lấy, quân đểu giả!
Như vậy vị Bà-la-môn này dùng đủ mọi cách nêu cho vua thấy nhiều nữ nhân khác cũng phạm tà dâm rồi nói:
– Tâu Đại vương, thế này là đủ rồi. Chúng ta sẽ đi nơi khác thôi.
Vua đi khắp cõi Diêm-phù-đề (Ấn Độ) và hai vị bảo nhau:
– Tất cả nữ nhân đều giống hệt nhau. Chúng có nghĩa gì với ta đâu? Thôi ta hãy quay về đi.
Thế rồi hai vị đi thẳng về nhà ở Bà-la-nại. Vị tế sư nói:
– Tâu Đại vương, mọi nữ nhân đều như thế cả; bản chất của chúng đều gian tà. Xin ngài tha tội cho chánh hậu Kinnarà.
Thể theo lời khẩn cầu của vị tế sư, vua tha tội cho bà, song truyền đuổi bà ra khỏi cung. Khi vua đã tống bà ra khỏi cung rồi, vua chọn một vương hậu khác và truyền lệnh đuổi luôn tên què cùng chặt nhánh cây hồng đào bỏ đi.
Vào thời ấy chúa chim Kunàla là Pañcàlacanda. Vì thế khi kể lại chuyện ngài đã chứng kiến tận mắt, ngài ngâm kệ để chứng minh:
21. Từ chuyện Kin-na, Kan-da vương
Có nhiều việc tỏ lộ ra rằng:
Nữ nhân tất cả đều không thấy
Thích thú trong nhà chúng trú an;
Người vợ bỏ rơi chồng cách ấy,
Dù chồng thắm thiết lại hùng cường,
Vẫn thường đi với đàn ông khác,
Ngay với gã què cũng lạc đường.
*
Chuyện vương hậu Pañcapàpà
Đây là một chuyện khác nữa: Ngày xưa vị vua Bà-la-nại mệnh danh là Baka cai trị vương quốc đúng chánh pháp. Thời ấy một người đàn ông nghèo khổ sống ở Đông môn thành Ba-la-nại sinh được một gái đặt tên là Pañcapàpà. Chuyện kể rằng trong một đời quá khứ nàng làm con gái nhà nghèo nhào trộn đất sét để đắp tường. Lúc ấy một vị Độc Giác Phật suy nghĩ: “Ta phải tìm đất sét ở đâu để đắp hang núi này cho sạch sẽ gọn gàng? Có thể ta tìm được ở Ba-la-nại”.
Vị ấy liền đắp y, cầm bình bát trong tay đi vào kinh thành và đứng không xa nữ nhân này. Nàng tức giận nhìn vị ấy, nghĩ thầm: “Trong tâm địa xấu xa của y chắc đang cầu xin cả đất sét lẫn thức ăn”. Vị Độc Giác Phật vẫn đứng bất động. Vì thế khi nàng thấy vị ấy đứng yên, nàng hồi tâm, nhìn vị ấy một lần nữa và nói:
– Bạnh Tôn giả, ngài chưa có đất sét.
Rồi nàng lấy một cục đất lớn đặt vào bình bát và với cục đất sét này, vị ấy làm cho một vật trong hang được gọn gàng. Và phần thưởng dành cho cục đất sét ấy là thân thể nàng trở nên êm dịu lúc tiếp xúc, nhưng hậu quả của nét mặt giận dữ kia là tay chân, mồm, mắt, mũi nàng trở nên xấu xí dị dạng, vì thế quần chúng biết nàng qua biệt hiệu Pañcapapà (Ngũ ác tật).
Bấy giờ vua Ba-la-nại có dịp du hành quanh kinh thành ban đêm và khi đi đến chốn này, nàng đang nô đùa với các thôn nữ khác, và vì không biết đó là vua, nàng nắm lấy tay vua. Kết quả việc xúc chạm với nàng là vua mất hết tự chủ và như thể bị rúng động vì xúc chạm với thần tiên, lòng rạo rực dục tình, vua nắm lấy tay nàng mặc dù nàng trông thật xấu xí dị dạng, và hỏi nàng là con gái nhà ai. Nàng đáp:
– Con gái một người cư ngụ bên cổng thành.
Và nghe nàng chưa có chồng, vua bảo:
– Ta sẽ là chồng nàng. Hãy đi xin phép cha mẹ chấp thuận.
Nàng đến gặp cha mẹ và nói:
– Có một anh chàng muốn cưới con làm vợ.
Khi cha mẹ đồng ý và bảo:
– Chắc người kia cũng nghèo khó tội nghiệp lắm mới muốn cưới cô gái như con.
Nàng đến báo tin cho nhà vua biết cha mẹ nàng đã bằng lòng.
Thế rồi vua ở chung với nàng ngay trong chính nhà ấy, và tảng sáng hôm sau lại tìm về cung. Tứ hôm ấy, vua thường cải trang đến đó và không còn quan tâm nhiều đến bất cứ nữ nhân nào khác.
Bấy giờ một hôm cha nàng mắc bệnh lên máu. Liều thuốc chữa bệnh cho là thường xuyên cung cấp cháo nấu với sữa, lạc, mật ong và đường. Song vì nhà nghèo, họ không thể kiếm đâu ra món ấy. Sau đó bà mẹ bảo con gái:
– Này con, chồng con có thể kiếm cho ta một ít cháo này chăng?
Nàng đáp:
– Mẹ ơi, chồng con chắc còn nghèo hơn ta nữa, song dù vậy, con cũng sẽ hỏi chàng, mẹ đừng lo gì.
Nói thế xong, vào lúc vua trở về, nàng ngồi xuống như thể đang buồn bực. Khi vua đến hỏi tại sao nàng buồn như vậy và nghe chuyện ấy, vua bảo:
– Này hiền thê, thế khi nào ta sẽ phải đem về món thuốc công hiệu này?
Rồi vua suy nghĩ: “Ta không thể tiếp tục đến đây bằng cách này mãi được, ta phải xem xét nỗi hiểm nguy vì cứ đi lui đi tới thế này. Song nếu ta đưa nàng về triều, quần thần không biết nàng có được làn da xúc chạm êm dịu, họ sẽ chế nhạo ta và nói: “Đức vua đem về một con quỷ cái”. Còn nếu ta để cho cả kinh thành biết được xúc giác êm dịu ấy của nàng thì ta sẽ gạt bỏ hết mọi lời chê bai chống đối ta”. Vì thế vua bảo nàng:
– Này ái thê, thôi đừng buồn bực nữa. Ta sẽ đem cho cha nàng một ít cháo ấy.
Nói xong, sau khi hưởng lạc thú cùng nàng, vua trở về cung. Hôm sau vua bảo nấu món cháo như nàng đã tả và lấy lá kết thành hai cái giỏ, một giỏ đựng cháo gạo và trong giỏ kia vua đặt một vương miện bằng ngọc rồi buộc chặt chúng lại.
Ban đêm vua đến bảo nàng:
– Này ái thê, chúng ta nghèo lắm. Phải khó khăn vất vả lắm ta mới kiếm được cháo này. Nàng phải dặn cha nàng: “Hôm nay ăn cháo trong giỏ này; ngày mai giỏ kia”.
Nàng làm theo lời dặn. Còn cha nàng, sau khi ăn một ít cháo đã thấy thỏa mãn ngay nhờ các chất bổ dưỡng tăng dần sinh lực, phần còn lại nàng đưa cho mẹ và chính nàng cũng ăn một phần, nên cả ba đều cảm thấy vô cùng sung sướng, còn cái giỏ đựng vương miện bảo ngọc ấy, họ để dành cho nhu cầu hôm sau.
Khi về cung thất, vua rửa mặt và bảo:
– Hãy đem vương niệm của trẫm đến đây.
Quần hầu đáp:
– Chúng thần không tìm ra vương miện.
Vua phán:
– Hãy đi tìm khắp kinh thành.
Họ đi tìm nhưng vẫn không thấy đâu cả. Vua phán:
– Thôi được, hãy đi tìm trong các nhà nghèo ngoại thành, bắt đầu từ các giỏ lá đựng thức ăn.
Họ đi tìm và thấy vương miện bảo châu trong nhà này, liền la lên:
– Cha mẹ của cô nàng này là bọn trộm!
Họ trói cả hai và đem đến trình vua. Lúc ấy cha nàng thưa:
– Tâu Chúa thượng, chúng thần không phải bọn trộm, có một ngươi đã mang cho chúng thần bảo vật này.
– Ai thế? Vua hỏi.
– Con rể của thần – Lão đáp.
Khi được hỏi người ấy ở đâu, lão đáp:
– Tiện nữ biết.
Rồi lão nói chuyện với nàng:
– Này con, con biết chồng con là ai chứ?
– Con không biết.
– Nếu vậy thì chúng ta tiêu đời rồi!
– Thưa cha, chàng đến lúc trời tối và đi trước khi trời sáng, vì vậy con không biết hình dáng chàng, nhưng con có thể nhận ra chàng bằng cách nắm tay chàng.
Cha nàng kể việc này với các quan và họ tâu trình vua. Vua giả vờ không biết gì về việc này và phán:
– Được hãy để nữ nhân này ở trong bức màn ở sân chầu, và đục một lỗ trên màn lớn bằng bàn tay đàn ông rồi gọi dân chúng đến đây để tìm cho ra tên trộm bằng cách chạm vào tay nó.
Quần thần làm theo lệnh vua. Khi đến gặp nàng và thấy nàng như vậy, họ đều ghê tởm bảo nhau:
– Nó là con quỷ cái.
Trong nỗi ghê tởm, họ không dám đụng vào nàng. Nhưng họ cũng đưa nàng đặt vào trong bức màn ở sân chầu và tập họp dân chúng lại. Khi cầm tay mỗi người đến dang qua lỗ hỏng, nàng bảo:
– Không phải người này.
Dân chúng đều say mê vì sự xúc chạm thần tiên của nàng nên không thể bỏ đi được. Họ suy nghĩ: “Nếu nàng ấy đáng bị trừng phạt thì dù chúng ta phải lấy gậy đánh nàng, chúng ta cũng sẵn sàng chịu đựng mọi việc phục dịch của bọn tôi đòi vì nàng và rước nàng về nhà làm vợ chánh”.
Sau đó quân hầu của vua đánh đuổi bọn họ đi thì tất cả quần chúng bắt đầu từ vị phó vương đều làm như lũ người điên. Lúc ấy vua bảo:
– Thế trẫm có thể là người ấy chăng?
Rồi vua dang tay ra. Người đàn bà ấy nắm lấy tay vua và la to:
– Ta đã bắt được tên trộm?
Vua hỏi quần thần:
– Khi tay các khanh được nàng ấy nắm, các khanh nghĩ sao?
Họ tâu vua giống hệt cảm giác họ đã nhận được. Vì thế vua phán:
– Do duyên cớ này trẫm đã bảo chúng đưa nàng về cung. Nếu dân chúng không biết gì về xúc giác của nàng, họ sẽ khinh chê trẫm. Này các khanh đã biết mọi sự thật nhờ trẫm, vậy hãy nói ra nàng ấy nên ở nhà ai để làm vợ?
Quần thần đáp:
– Tâu Đại vương, ở cung của Đại vương.
Thế rồi cử hành lễ quán đảnh, vua phong nàng làm chánh hậu và ban cho cha mẹ nàng quyền cao chức trọng. Từ đó về sau, vì say mê nàng, vua không bảo tiến hành điều tra về nàng, cũng chẳng ngó ngàng đến nữ nhân nào khác. Các vương phi kia tìm cách khám phá điều bí mật liên quan đến nàng.
Một hôm, nàng nằm mộng thấy điềm nàng làm chánh hậu của hai vị vua, liền kể giấc mộng ấy với vua. Vua triệu các người giải mộng đến hỏi:
– Giấc mộng chánh hậu thấy như vậy có nghĩa gì?
Bấy giờ bọn họ đã nhận hối lộ từ các vương phi kia, liền thưa:
– Việc chánh hậu ngồi trên lưng voi toàn trắng là dấu hiệu Đại vương băng hà, và việc lệnh bà sờ mặt trăng trong khi cỡi trên lưng voi là dấu hiệu bà đưa một vị địch vương đến chống Đại vương.
– Vậy phải làm gì bây giời? Vua hỏi.
– Đại vương không thể xử tử bà, nhưng Đại vương phải đặt bà lên chiếc thuyền và đẩy xuống cho trôi sông.
Ban đêm, vua sai đặt nàng lên thuyền cùng thức ăn, áo quần và đồ nữ trang rồi đẩy nàng trôi theo dòng. Trong khi nàng được dòng nước cuốn đi trên thuyền, nàng đến diện kiến vua Pàvàriya, lúc ấy đang du hí trong dòng nước.
Vị đại tướng của vua thấy chiếc thuyền liền hỏi:
– Chiếc thuyền này thuộc về ta.
Vua bảo:
– Hàng hóa trên thuyền thuộc về trẫm.
Khi chiếc thuyền đến gần, hai vị thấy nữ nhân kia và vua hỏi:
– Ngươi là ai mà giống như quỷ cái thế?
Nàng mỉm cười đáp nàng là chánh hậu của vua Baka rồi kể cho vua nghe tất cả chuyện đời nàng, rằng nàng lừng danh khắp cõi Diêm-phù-đề với biệt hiệu Ngũ ác tật. Lúc ấy vua nắm tay nàng nhấc ra khỏi thuyền, vừa cầm bàn tay nàng, vua liền thấy rạo rực say mê vì sự xúc chạm ấy, bởi thế các cung tần mỹ nữ của vua chẳng còn được xem là xứng đáng với danh hiệu nữ nhân nữa, vua liền tôn nàng lên địa vị chánh hậu và nàng được vua sủng ái như chính bản thân của vua vậy.
Khi vua Baka nghe mọi chuyện đã xảy ra liền bảo:
– Ta không cho phép vua ấy phong nàng làm chánh hậu đâu.
Rồi truyền triệu tập quân sĩ, vua đến đóng quân ở một cảng đối diện bên kia sông, gửi thông điệp với mục đích là bảo vua Pàvàriya hoặc phải giao trả vị chánh hậu của mình hoặc ứng chiến.
Vị địch vương kia sẵn sàng lâm trận, nhưng các quân sư của cả hai vua đều nói:
– Không cần phải chết vì một nữ nhân. Bà ấy thuộc về vua Baka vì đó là phu quân đầu tiên của bà, song bà ấy lại thuộc về vua Pàvàriya vì vua này đã cứu bà ra khỏi chiếc thuyền. Do vậy hãy để bà ấy ở trong khoảng thời gian bảy ngày tại cung của mỗi vị vua.
Sau khi bàn luận kỹ lưỡng, họ thuyết phục hai vị vua đồng ý quan điểm này và cả hai đều vô cùng hoan hỷ, bảo xây kinh thành ở hai bờ đối diện của sông ấy và ngự đến ở đó, còn nữ nhân ấy nhận địa vị chánh hậu của cả hai vua, và cả hai đều say mê nàng.
Bấy giờ nàng ở bảy ngày cùng một vị vua, rồi nàng lên thuyền qua sông đến cung của vị kia, và lúc ở giữa dòng, nàng lại phạm tà hạnh với tên lái thuyền là một lão già vừa hói vừa què.
Thời ấy chúa chim Kunàla là vua Ba ka, nên ngài kể chuyện này như việc do chính mắt ngài trông thấy, và ngài ngâm kệ để chứng minh điều này:
22. Pà-và chánh hậu, Ba-ka vương,
Tham dục hai vua thật khó lường,
Tuy thế, nàng kia còn phạm tội
Với tên nô lệ của chồng nàng.
Vậy còn tên hạ tiện nào khác
Nàng lại không mong thuốn phạm gian?
*
Chuyện vương hậu Pingiyànĩ.
Tuy nhiên còn một chuyện khác nữa:
Ngày xưa, vương hậu của vua Brahamadata, mệnh danh là Pingiyànĩ, mở cửa sổ nhìn ra và thấy một người giữ ngựa của hoàng gia. Đến khi vua đã ngủ say, nàng trèo xuống qua cửa sổ, phạm tà dục với y rồi lại trèo lên cung điện, tắm rửa toàn thân với đủ loại nước hoa và nằm xuống cạnh vua. Bấy giờ một hôm, vua suy nghĩ: “Ta không biết vì sao vào lúc nửa đêm, thân thể hoàng hậu luôn giá lạnh, ta muốn xem xét vấn đề này”.
Vì thế một ngày kia, vua giả vờ ngủ rồi trở dậy đi theo nàng và thấy nàng phạm tà hạnh với gã giữ ngựa. Vua trở về bước lên nội cung và nàng cũng vậy, sau khi phạm tội ngoại tình, liền trở vào nằm trên chiếc giường đẩy.
Hôm sau, trước mặt quần thần, vua triệu nàng vào chầu rồi công bố tà hạnh của nàng và phán:
– Tất cả đàn bà đều tội lỗi như thế cả.
Rồi mặc dù tội ấy đáng hành hình, tù đày, xẻo thịt, hoặc phanh thây, vua vẫn tha tội cho nàng, nhưng vua lại truất phế nàng khỏi ngôi cao và phong một nữ nhân khác làm chánh hậu.
Vào thời ấy chúa chim Kunàla là vua Brahmadatta, vì thế chính ngài kể chuyện này như một việc ngài đã thấy tận mắt và ngài ngâm kệ để chứng minh:
23. Kiều nữ Ping-ya, ái hậu vua
Brah-ma-dat ngự trị sơn hà,
Tuy nhiên, nàng với tên nô lệ,
Của đấng quân vương phạm dục tà,
Do bởi hoang dâm, nàng mất hết
Cả quân vương lẫn gã gia nô.
Sau khi kể tội lỗi của nữ giới trong các chuyện đời xưa, ngài lại nói về tà hạnh của họ bằng cách khác nữa:
24. Hèn hạ, đổi thay ấy nữ nhân,
Chúng còn bội nghĩa với vong ân
Nam nhân, ví thử không si ám,
Chẳng hạ cố tin chúng nói năng.
25. Chúng ít quan tâm bổn phận mình,
Hoặc lời kêu gọi của ân tình,
Vô tâm trước tấm lòng cha mẹ,
Hoặc mối buộc ràng của đệ huynh.
Chúng đóng vai người không hổ thẹn
Khi vi phạm luật lệ công bình,
Mọi hành vi chúng đều tuân phục
Ước vọng trong tâm của chính mình.
26. Dù ở với chàng bao tháng năm,
Dù chàng yêu dấu lại ân cần,
Nồng nàn trong dạ và thân thiết
Như chính đời chàng quả thật chân,
Trong lúc gian lao và khốn khổ,
Chúng đành lòng bỏ đức phu quân.
Về phần ta chẳng bao giờ nữa
Còn đặt lòng tin bọn nữ nhân.
27. Tâm nữ nhân thường thấy đổi thay
Như là loài vượn khỉ leo cây,
Hoặc như tàn lá cây soi bóng
Trên đỉnh non cao, vực thẳm dày.
Chủ đích ở trong lòng nữ giới
Sao cũng chập chờn cứ chuyển lay
Như thể bánh xe lăn vút mãi
Không hề có lúc nghỉ ngừng quay.
28. Khi đã nghĩ suy thật kỹ càng,
Chúng nhìn quanh quẩn kiếm tìm đàng
Để đi bắt một người giàu có,
Biến gã thành mồi của chúng săn,
Những bọn dại khờ như vậy đó,
Chúng dùng lời mặt ngọt chiêu hàng,
Như chàng giữ ngựa miền Cam-bốt
Dùng cỏ thơm câu ngựa dã man.
29. Song nếu nhìn quanh thật kỹ càng
Mà không tìm thấy được con đường
Để mong chiếm đoạt phần tài sản
Biến gã thành mồi của chúng săn,
Chúng đuổi gã ngay như một kẻ
Đã lên bờ nọ lúc sang ngang,
Tức thì bỏ mặc thuyền trôi dạt,
Thuyền ấy từ đây chúng chẳng màng.
30. Như ngọn lửa thiêu đốt bạo hung
Chúng ôm ghì gã chặt trong lòng,
Hoặc là đẩy gã như dòng nước
Lũ lụt chảy cuồn cuộn tứ tung!
Chúng tán tỉnh chàng nào chúng ghét
Cũng nhiều như kẻ chúng tôn sùng,
Như con thuyền vẫn thường kề sát
Cả bến bờ xa lẫn bến gần!
31. Chúng chẳng thuộc về một hoặc hai,
Chúng như hàng quán mở ra mời;
Người dùng lưới bắt nhanh làn gió,
Như nữ nhân cầm giữ bọn trai.
32. Như quán nước, sông suối, mặt đường,
Hoặc như nhà trọ, sảnh công đường,
Nữ nhân buông thả cùng tất cả,
Tội chúng làm sao có thể lường!
33. Độc hại như đầu rắn hổ đen,
Tham mồi như ngọn lửa vừa nhen,
Như bò lựa cỏ ngon lành nhất,
Chúng muốn tình lang lắm của tiền!
34. Tránh loài voi, rắn hổ đen mun,
Ngọn lửa tưới bằng lạc cháy bùng,
Người được phong vương và quán đảnh,
Bọn hồng quần, phải chạy nhanh chân.
Những ai biết sống luôn phòng hộ
Xem các thứ này tựa địch quân.
Quả thật chính là tâm địa chúng
Làm sao biết rõ, khó vô cùng!
35. Má hồng tài trì thật thông minh,
Hay có hình dung tuyệt đẹp xinh,
Và đám mày râu thường ái mộ,
Bọn này ta phải tránh cho nhanh;
Vợ người hàng xóm, cô nàng kiếm
Một phú ông loan phượng hợp thành,
Năm hạng nữ nhi này tất cả,
Nam nhân không được kết ân tình!
36. Dù một nam nhân chứa bạc vàng
Cả trần gian để tặng riêng nàng
Mà tim chàng vẫn yêu thương nhất,
Nàng cũng làm ô nhục đến chàng,
Nếu có thời cơ nào thuận tiện.
Vậy nên cẩn thận kẻo e rằng
Bạn sẽ rơi vào tay độc ác
Của bọn người hèn hạ dối gian!
37. Chàng phô dáng khỏe mạnh hùng cường,
Không phạm lỗi lầm của thế gian,
Chàng đến cầu hôn cô thiếu nữ,
Chàng vừa tuấn tú lại yêu thương.
Gặp cơn hoạn nạn và đau khổ,
Nàng sẽ rời xa, sẽ bỏ chàng.
Ta chẳng bao giờ tin tưởng chúng,
Phần ta đối với bọn hồng nhan!
38. Chàng chớ tin vì cứ nghĩ rằng:
“Nàng yêu ta đó, đúng rồi chăng?”
Chàng đừng tin lẽ thường nhi nữ
Trước mặt chàng tuôn lệ ướt đầm!
39. Chớ tin cái ổ lót cành khô
Cùng các lá cây tự thuở xưa
Người bạn ngày xưa, đừng tín nhiệm,
Ngày nay có thể hóa người thù,
Chớ tin vua chúa vì suy nghĩ:
“Người ấy, bạn ta thuở trước giờ”
Và chớ tin vào người phụ nữ
Dù sinh cho bạn chục con thơ!
40. Cầu lạc chính là bọn nữ nhân,
Dục tham sao cứ mãi buông lung,
Lũ người vi phạm nền luân lý,
Bọn chúng, bạn đừng có cậy trông.
Vợ cứ giả vờ trò luyến ái
Bao la, vô hạn trước ông chồng,
Chớ tin nàng ấy,vì nhi nữ
Chung chạ như bao bến tắm sông!
41 . Sẵn sàng chém giết hoặc phân thây,
Không có việc gì chẳng nhúng tay,
Khi đã diễn xong trò cắt cổ,
Chúng còn uống máu của chàng ngay!
Bọn mày râu chớ say mê chúng,
Một lũ dục tham hạ liệt đầy,
Phóng đãng và còn chung chạ nữa
Như là bến tắm sông Hằng vầy!
42. Lời nói chúng thường chẳng biệt phân
Giữa điều chân thật với tà gian,
Như bò lựa cỏ ngon lành nhất,
Chúng kiếm tình nhân lắm bạc vàng.
43. Dụ một chàng bằng mắt, nụ cười,
Chàng kia bằng cách bước đi chơi,
Giả trang lôi cuốn vài chàng nữa
Đám khác bằng câu chuyện ngọt bùi!
44. Hung bạo, nhẫn tâm, lại bất lương,
Song lời lẽ chúng ngọt như đường,
Không gì bọn nữ nhi không biết
Để gạt chàng nào chúng kết hôn!
45. Quả thật đàn bà thảy ác gian,
Việc ô nhục của chúng vô lường,
Chúng đều tham đắm và liều lĩnh
Thiêu đốt nhanh như ngọn lửa bừng.
46. Nữ nhân chẳng phải được sinh ra
Để thích người này, ghét kẻ kia,
Chúng tán chàng nào mà chúng ghét
Cũng nhiều như kẻ chúng tôn thờ,
Như con thuyền vẫn thường kề sát
Cả bến bờ gần lẫn bến bờ xa.
47. Vì phải đâu là chuyện ghét thương
Mà ta thường thấy ở hồng quần,
Đàn ông chúng bám vì vàng bạc
Như bám vào cây, đám bọ trùng!
48. Kẻ làm nghề đốt xác người ta,
Hoặc quét hoa khô khỏi điện thờ,
Hoặc gã giữ voi hay giữ ngựa,
Đến cùng là đứa giữ trâu bò,
Tuy nhiên vì bạc tiền, nhi nữ
Vẫn chạy theo phường hạ đẳng kia.
49. Bỏ rơi quý tộc nếu nghèo nàn,
Nhưng chính tên vô loại, hạ tầng,
Đối với tên này, như xác thối,
Nếu giàu, chúng cũng chạy nhanh chân.
Như vậy, Ànanda, vị thứu vương, dựa theo những sự việc do chính ngài biết, đã nói về những tính xấu của nữ giới, rồi giữ im lặng. Còn Nàrada, sau khi nghe những gì Ngài cần phải nói, cũng dựa theo những việc chính mình biết, liền kể ra những tính xấu của họ.
Để chứng minh điều này, bậc Đạo Sư bảo:
– Thật vậy, lúc ấy Nàrada, khi nghe kể đoạn khởi đầu, đoạn giữa và đoạn cuối của câu chuyện mà Ànanda, thứu vương cần phải nói ra, đến đây, liền ngâm các vần kệ này:
50. Bốn vật chẳng hề biết thỏa thuê,
Những lời ta nói, lắng tai nghe:
Đại dương, đạo sĩ và vua chúa,
Hỡi Điểu vương, và bọn nữ nhi.
51. Mọi dòng trong đất gặp quê hương
Cũng chẳng làm đầy đủ đại dương,
Vẫn có cái gì còn thiếu thốn,
Dù cùng nước biển thảy hòa tan.
52. Bà-la-môn thuộc các kinh thơ,
Tri kiến theo truyền thuyết thuở xưa,
Thánh kiến, tuy nhiên, còn thiếu thốn
Và khao khát mãi, mãi chưa vừa.
53. Vị vua chinh phục cõi trần ai,
Tất cả núi đồi, các biển khơi,
Có thể gọi kho tàng bất tận
Chứa đầy tài sản của mình thôi,
Vẫn mơ thế giới bên kia biển
Vì nghĩ bên này quá nhỏ nhoi!
54. Nhi nữ kết duyên với tám chồng
Sẵn sàng tuân phục ý riêng nàng,
Anh hùng gan dạ đầy tài giỏi
Nhiệm vụ tình quân thảy vẹn toàn;
Tuy vậy nàng yêu chàng thứ chín
Bởi vì còn thiếu thốn trong lòng!
55. Đàn bà như lửa nuốt con mồi,
Như nước lũ tuôn thảy cuốn trôi,
Tai họa, gai đâm là bọn chúng,
Chúng thường đi lạc kiếm vàng thôi!
56. Chàng kia dùng lưới đón xuân phong,
Hoặc chỉ một mình tát biển đông,
Vỗ với một tay, xưa lại dám
Để tâm tư hướng đến giai nhân!
57. Đối với quần thoa có trí tài,
Thật chân là của quý trên đời,
Tính tình phức tạp như tơ rối,
Như thói các đàn cá biển khơi.
58. Nói năng dịu ngọt, khó vừa lòng,
Như thể khó đầy các lạch sông,
Chúng lắng chìm dần, dần xuống mãi,
Biết hồng quần, phải chạy nhanh chân!
59. Hồng nhan phản bội khiến mê say,
Đệ nhất tịnh nhân phải đọa đày;
Chúng cứ chìm dần, dần xuống mãi,
Những ai biết chúng, phải xa bay!
60. Bất kỳ chúng phục vụ đàn ông
Vì bạc vàng, tham dục thỏa lòng,
Chúng đốt gã như nhiên liệu cháy
Được thả vào trong ngọn lửa hồng!
Khi Nàrada đã nêu ra các tội lỗi của nữ nhân như vậy, bậc Đại Sĩ một lần nữa dùng những thí dụ đặc biệt chứng minh các tính xấu của họ.
*
Để làm sáng tỏ việc này, bậc Đạo Sư nói:
– Thật vậy, chim chúa Kunàla, sau khi biết phần đầu, phần giữa và phần kết thúc câu chuyện Nàrada kể, đến đây liền ngâm các vần kệ sau:
61. Người khôn dám nói một đôi lời
Với quỷ cầm gươm sắc mới mài,
Đánh đập hung xà, song chớ bạo
Chuyện trò với gái một mình thôi!
62. Nữ sắc làm mờ trí tục nhân,
Nói, cười, ca, múa, cánh tay trần
Gây phiền lụy những tâm dao động,
Như quỷ dữ xưa giết lái buôn.
63. Đắm say rượu thịt, cố hoài công
Kiềm chế cơn thèm, nén dục tâm
Như quái vật xưa trong biển cả
Nuốt trôi tài sản của nam nhân.
64. Chúng chiếm riêng tham dục ngũ phần,
Buông lung kiêu mạn cứ tuôn tràn,
Như sông tìm đại dương đi tới,
Bọn phóng dật làm mồi nữ nhân.
65. Trai tráng được nhi nữ thích ham,
Động tâm bởi nhục dục tham lam,
Kẻ kia nung nấu vì cuồng vọng,
Chúng đốt sạch trơn tựa lửa than!
66. Kẻ nào nếu chúng biết giàu sang,
Nhào đến cướp đi, trọn bạc vàng,
Tay quấn chặt chàng bừng lửa dục,
Như dây leo quấn chặt cành Sàl.
67. Như trái vim-ba, miệng đỏ tươi,
Dùng nhiều mưu kế hại con người,
Khi thì cười lớn, khi cười nụ,
Như quỷ sam-va, chúa bẫy mồi!
68. Nữ nhi trang điểm đủ kim hoàn
Được họ nhà trai đón thật sang,
Cho dẫu được canh phòng cẩn mật,
Vẫn thường phạm tội phản phu quân,
Như nàng kiều nữ ngày xưa ấy
Đã được mang trong bụng quỷ nhân.
69. Người có trí và thật nổi danh
Được tôn sùng dưới mắt quần sinh,
Tuy nhiên sa dưới quyền nhi nữ
Sẽ không còn tươi sáng hiển vinh,
Như cả vầng trăng vừa bị nuốt
Bởi La-hầu đại lực yêu tinh.
70. Cừu nhân trút hận xuống cừu nhân,
Hay bạo chúa phô nỗi hận sân,
Số phận còn đau hơn thế nữa
Che mờ tất cả, bởi nguồn căn
Dục tham, nên phải đành sa đọa
Ở dưới quyền uy của nữ nhân.
71. Bị hăm cào cấu khắp thân hình,
Hoặc nắm tóc lôi kéo khỏi mình,
Dọa quất bằng roi, hay gậy gộc,
Hoặc là đấm đá khắp chung quanh,
Nữ nhi vẫn chạy đi tìm kiếm
Một gã cùng đinh kết bạn tình,
Vì thấy lạc hoan trong gã ấy
Như loài ruồi kiếm xác ương sình!
72. Tránh bọn nữ nhân ở giữa đường,
Hoặc kinh thành hoặc ở công trường
Của vua, thị trấn, thôn làng nhỏ,
Bậc có trí hiền sẽ lạc an,
Tránh được bẫy đang giăng vậy đó
Bởi Na-mu-ci, chính Ma vương.
73. Kẻ nào buông lỏng luật Sa-môn,
Tập những thói đê tiện, hạ tầng,
Kẻ khốn ngu si đành đổi lấy
Ngục sâu thay thế cảnh thiên đường,
Giống như những kẻ nào đem đổi
Ngọc có tỳ thay ngọc vẹn toàn.
74. Đời này, đời kế đáng khinh khi
Là kẻ cố tâm khổ lụy vì
Bọn ác nữ nhân, đi lảo đảo,
Ngã nhào liều lĩnh, thật ê chề
Như con lừa dữ cuồng điên chạy
Với chiếc xe lăn lóc mọi bề.
75. Hoặc vào rừng lụa lắm gươm dao,
Hoặc ngục Pa-ta phải đọa vào,
Đội lốt thú rùng đi lãng vãng,
Chốn ma đói chẳng thoát thân nào.
76. Trong vườn Hỷ lạc thú vui chơi
Của các Thiên tiên ở cõi trời,
Quyền đại đế vương trên mặt đất
Tiêu vong vì nữ giới, than ôi!
Thói phường phóng dật buông lung ấy
Đi đến sầu bi đọa xứ thôi.
77. Khó đâu thành đạt thú thiên đường,
Cũng chẳng khó quyền lực đế vương
Trải rộng khắp nơi trên cõi đất,
Các nàng Thiên nữ ở lầu vàng
Đã thành tựu các điều như vậy,
Đoạn diệt từ lâu ác dục tham.
78. Từ Dục giới này được hóa thân
Đi vào Sắc giới đủ quyền năng
Tái sinh vào cõi A-la-hán,
Những vị đã trừ diệt dục tâm.
79. Cực lạc vượt qua mọi khổ đau,
Không duyên sinh, bất động, thâm sâu,
Đạt thành bởi những người thanh tịnh
Đắc Niết-bàn, ly dục đã lâu.
*
Như vậy bậc Đại Sĩ chấm dứt Pháp thoại sau khi làm cho hội chúng đắc Đại Niết-bàn bất diệt. Các loài yêu quỷ mãnh xà và đồng loại ở vùng Tuyết Sơn cùng các vị thần đứng trên không gian, đều reo mừng tán thán:
– Lành thay! Thật là khéo nói với đầy đủ vẻ nhiệm màu của một bậc Giác Ngộ!
Ànanda, thứu vương, Nàrada, vị thần Ba-la-môn, Punnamukha, chim sơn ca chúa, và bậc Đại Sĩ đều trở về trú xứ của mình. Song các vị kia thỉnh thoảng còn trở lại nhận lời chỉ giáo từ đôi bàn tay của bậc Đại Sĩ và do tuân thủ giáo pháp của ngài nên được tái sinh vào cõi Thiên.
*
Đến đây, bậc Đạo Sư chấm dứt bài giảng và ngâm vần kệ cuối cùng để nhận diện Tiền thân:
80. U-dà-yi ấy chúa Sơn ca,
Linh thứu vương là À-nan-da,
Nà-ra-da là Xá-lợi-phất,
Ku-nà-la hót chính là Ta.
Các vị phải hiểu Tiền thân này như vậy.
Bấy giờ các Tỷ-kheo này, khi đến đây, đã đến bằng thần thông của bậc Đạo Sư, còn khi về, lại về bằng chính uy lực thần thông của mình. Và ở trong Đại Lâm, bậc Đạo Sư đã trình bày cho các vi thấy phương tiện để đạt được chánh định, nên ngay hôm ấy các vị đắc quả A-la-hán. Có một số đông chư Thiên tụ họp nơi ấy nên đức Thế Tôn tuyên thuyết cho các vị nghe Kinh Đại Hội (Mahàsamaya Sutta).
-ooOoo-
537. Chuyện đại Sutasoma (Tiền thân Mahà-Sutasoma)
Chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Jetavana (Kỳ Viên) về Trưởng lão Angulimàla (Người đeo vòng ngón tay).
Cách vị ấy tái sinh và gia nhập Giáo hội phải được hiểu như đã được miêu tả đầy đủ trong kinh Angulimàla (Trung Bộ II).
Bấy giờ từ khi nhờ phát nguyện một hành động nói lời Chân thật, ông cứu sống một người đàn bà sinh khó, rồi ông kiếm được thực phẩm cúng dường thật dễ dàng. Sau đó nhờ tu tập hạnh viễn ly, ông chứng đắc quả A-la-hán và được công nhận là một trong tám mươi Đại Trưởng lão.
Bấy giờ Tăng chúng bắt đầu nói về đề tài này, bảo nhau:
– Này các Hiền giả, thật vi diệu thay là phép thần thông do đức Thế Tôn thị hiện để giáo hóa nhẹ nhàng như vậy và không cần dùng chút bạo lực nào, Ngài đã điều phục một tướng cướp hung bạo khát máu như Angulimàla! Ôi quả thật chư Phật đã thành tựu những việc hy hữu thay!
Bậc Đạo Sư ngồi trong Hương phòng, với thiện nhĩ thông, hiểu được chuyện đang nói, và biết rằng hôm nay Ngài đến đó sẽ rất lợi ích và sẽ thuyết giảng một đại kinh nên với oai nghi tối thắng của một bậc Giác Ngộ, Ngài đi đến Chánh Pháp đường, ngồi trên sàng tọa dành cho Ngài và hỏi hội chúng đang thảo luận đề tài gì. Khi vị trình Ngài chuyện ấy, Ngài bảo:
– Này các Tỷ-kheo, thật không kỳ diệu gì việc Ta giáo hóa vị ấy ngày nay, khi Ta đã chứng đắc Vô thương Chánh giác. Ta cũng đã điều phục vị ấy khi ta còn sống trong một đời trước với một trình độ tri kiến hạn hẹp mà thôi.
Cùng với những lời này, Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Ngày xưa, vua Koravya cai trị rất đúng pháp tại thành Indapatta, trong quốc độ Kuru (Câu-lâu). Bồ-tát ra đời làm con của vị chánh hậu, và do ngài thích nước ép trái soma, nên được đặt tên Sutasoma. Khi ngài đến tuổi trưởng thành, vua gửi ngài đến Takkasilà để thọ giáo với một vị danh sư lẫy lừng khắp thế giới. Thế là khi nhận lãnh học phí để trả cho thầy, ngài lên đường đến đó.
Tại Ba-la-nại, vương tử Brahmadatta con vua Kàsi cũng được cha gửi đến đó cùng mục đích như trên và cùng lên đường theo hướng ấy. Trong lúc du hành, Sutasoma ngồi nghỉ trên ghế dài trong một sảnh đường cạnh cổng thành. Vương tử Brahmadatta cùng đến ngồi xuống cạnh ngài trên ghế đó. Sau khi chào thân hữu xong, Sutasoma hỏi bạn:
– Này Hiền hữu, bạn đã mệt mỏi vì cuộc hành trình rồi đó. Bạn từ đâu đến?
Khi vị kia đáp:
– Từ Ba-la-nại.
Ngài lại hỏi vị kia là con của ai.
– Con vua Brahmadatta.
– Quý danh là gì?
– Vương tử Brahmadatta.
– Hiền hữu đến đây có mục đích gì?
– Để được dạy các môn học thuật.
Sau đó vương tử Brahmadatta bảo:
– Hiền hữu cũng mệt mỏi vì chuyến đi này rồi.
Và hỏi thăm ngài tương tự như trên, Sutasoma kể cho bạn nghe mọi chuyện về mình.
Cả hai vị đều suy nghĩ: “Chúng ta đều là các vương tử đi thọ giáo các môn học thuật từ tay cùng một vị thầy”, liền kết bạn với nhau.
Khi vào thành, hai vị đến nhà giáo sư, đảnh lễ thầy, và sau khi nêu rõ lai lịch danh tánh, hai vị nói đến đây để xin thọ giáo các môn học thuật. Vị thầy sẵn sàng nhận lời thỉnh cầu ấy.
Sau khi trao học phí xong, hai vị bắt đầu học tập và không chỉ hai vị, mà còn nhiều vương tử khác ở xứ Diêm-phù-đề thời ấy, lên đến hơn một trăm vị, xin thọ giáo với vị thầy này.
Sutasoma là đệ tử lớn chẳng bao lâu đạt đến tài năng giảng dạy, nhưng không muốn thăm hỏi các bạn kia, ngài suy nghĩ: “Đây là thân hữu của ta”, ngài chỉ đến với vương tử Brahmadatta mà thôi, và trở thành thầy riêng của bạn, ngài giáo huấn bạn, trong lúc các vị kia phải từ từ thu thập kiến thức cho mình.
Các vị ấy sau thời gian tinh cần học tập cũng từ giã sư phụ, và tập họp thành một đoàn tùy tùng theo Sutasoma lên đường hồi hương. Sau đó, Sutasoma đứng trước đám đông để từ giã họ, bảo:
– Sau khi các vị chứng tỏ tài học của mình trước phụ vương, các vị sẽ ổn định đời mỗi người trong vương quốc của mình. Khi ổn định xong, xin nhớ tuân theo lời giáo huấn của ta.
– Thưa Tôn sư, đó là những gì?
– Vào những ngày trăng non và trăng tròn, phải giữ Bố-tát giới và cử sát sinh.
Chúng bạn đều đồng ý tuân lời dặn ấy. Bồ-tát nhờ thần lực tiên tri theo tướng mạo mỗi người, biết rằng đại nạn sẽ xảy đến với vương tử Ba-la-nại trong tương lai, và sau khi giảng dạy đầy đủ như vậy, ngài cho họ ra đi.
Các vị ấy đều trở về xứ sở, và sau khi trình bày việc học hành của mình trước các phụ vương, các vị ấy lên nối ngôi trong vương quốc của mình. Rồi để thông báo việc này cùng việc tiếp tục tuân thủ lời dạy của ngài, các vị vua ấy gửi thư cùng tặng vật đến Sutasoma.
Khi biết được tình hình mọi việc, bậc Đại Sĩ liền trả lời các thư kia cùng dặn các vị giữ vững niềm tin. Một trong các vị ấy là vua Ba-la-nại, vốn chưa bao giờ ăn cơm mà không có thịt, vì thế, để giữ ngày trai giới quần hầu thường lấy thịt cất riêng một nơi.
Bấy giờ, một hôm thịt được cất riêng như vậy, do người đầu bếp bất cẩn, bầy chó khéo nuôi của hoàng cung ăn hết. Người đầu bếp không tìm ra thịt vội cầm một nắm tiền đi quanh quẩn vẫn không mua được thịt gì cả, tự nhủ: “Nếu ta dọn cơm không có thịt, ta sẽ chết mất. Ta phải làm gì đây?” Nhưng lại nghĩ: “Còn có một cách”. Đến chiều tối, y ra nghĩa địa phơi đầy xác chết, lấy một ít thịt đùi của một người mới chết, y nướng thịt thật chín và dọn lên làm thức ăn.
Khi một lát thịt vừa chạm vào đầu lưỡi vua thì nó gây rung động khắp bảy ngàn dây thần kinh vị giác và tiếp tục tạo ra sự xáo trộn cả toàn thân. Tại sao vậy? Đó là do trước kia, vua đã từng dùng thịt này rồi. Vì truyện kể rằng trong đời sống ngay trước đời này, vua đã là một quỷ Dạ-xoa (Yakkha) từng ăn nhiều thịt người nên nó hợp khẩu vị vua. Vua suy nghĩ: “Nếu ta giữ im lặng mà ăn thịt này, y sẽ không nói cho ta biết đó là thịt gì”. Vì thế, khi nhổ ra, vua để rơi một miếng thịt xuống đất. Người đầu bếp thưa:
– Tâu Đại vương, xin ngài dùng thịt này, không sao cả đâu.
Vua ra lệnh mọi quân hầu lui ra và bảo:
– Trẫm biết rõ lắm nhưng đó là thịt gì?
– Đó là thứ thịt Đại vương đã thưởng thức các lần trước.
– Chắc chắn các lần khác thịt không có mùi thơm này.
– Tâu Đại vương, hôm nay thịt được nấu kỹ lắm ạ.
– Chắc chắn trước kia ngươi cũng nấu giống thế này chăng?
Rồi khi thấy y im lặng, vua phán:
– Hoặc là phải nói thật với trẫm hoặc ngươi phải chết.
Thế là y cầu khẩn vua cam đoan không trừng phạt và kể đúng sự thật. Vua bảo:
– Đừng nói gì việc ấy nữa. Ngươi sẽ phải ăn thịt nướng thường lệ và chỉ nấu thịt người cho trẫm.
– Tâu Đại vương, chắc chắn việc này khó lắm ạ.
– Đừng sợ, chẳng có gì khó cả.
– Thế tiểu thần kiếm đâu ra thường xuyên thứ thịt ấy?
– Chả có bọn tù nhân trong ngục đó sao?
Từ đó, y làm theo lời vua dặn. Dần dần, khi thiếu tù nhân, y trình:
– Tiểu nhân phải làm gì bây giờ?
Vua phán:
– Hãy ném xuống đường cái một gói có ngàn đồng tiền rồi bắt lấy kẻ nào lượm gói ấy như kẻ trộm và xử tử nó đi.
Y tuân lệnh. Dần dần, không tìm ra kẻ nào có ý nhìn đến gói tiền ấy nữa, gã thưa:
– Tiểu thần phải làm sao đây?
– Vào lúc trống điểm canh khuya, kinh thành thật đông người. Vậy ngươi hãy xuống vào trong một chỗ nứt ở tường nhà hay ở ngã tư, hạ thủ một người và cắt đi vài miếng thịt.
Từ đó, y thường trở về với một ít thịt mỡ và nhiều nơi trong kinh thành phát hiện nhiều xác chết. Tiếng than khóc vang lên: “Tôi đã mất cha, mất mẹ, mất anh em rồi”.
Dân trong thành kinh hoàng bảo nhau:
– Chắc chắn sư tử, cọp beo hay quỷ dữ đã ăn thịt các người này.
Khi quan sát các tử thi, họ thấy có chỗ giống vết thương hở miệng liền nói:
– Kìa, ắt hẳn một người nào đó ăn thịt chúng đấy.
Dân chúng tụ tập ở sân chầu và kêu than. Nhà vua hỏi:
– Này các hiền hữu, có chuyện gì thế?
– Tâu đại vương, trong kinh thành này có kẻ cướp ăn thịt người. Xin ngài ra lệnh bắt nó.
– Làm sao trẫm biết đó là ai được? Trẫm phải đi quanh quẩn kinh thành này mà canh giữ chăng?
Dân chúng bảo nhau:
– Nhà vua không quan tâm đến kinh thành. Chúng ta sẽ báo cáo việc này lên vị đại tướng Kàlahatthi.
Họ đến trình vị tướng ấy việc này và nói:
– Xin Đại tướng tìm cho ra tên cướp này.
Vị ấy đáp:
– Hãy đợi bảy ngày ta sẽ tìm ra tên cướp và giao cho các vị.
Khi giải tán quần chúng xong, ông ra lệnh cho các tướng lãnh:
– Này các hiền hữu, dân chúng bảo có tên cướp ăn thịt người trong thành này. Các hiền hữu, hãy mai phục ở nhiều nơi và bắt nó.
– Được lắm – Họ đáp.
Từ ngày ấy họ vây quanh toàn thành. Bấy giờ người đầu bếp đang ẩn mình trong cái lỗ ở tường nhà kia đã giết một phụ nữ và bắt đầu nhét đầy thịt này vô giỏ của y. Vì thế đám tướng lãnh chụp y, đấm đánh túi bụi và vừa trói y ra sau, vừa la lớn:
– Chúng ta đã bắt được tên trộm ăn thịt người rồi!
Một đám đông vây quanh họ. Rồi vừa đánh đập y một trận mê tơi vừa buộc giỏ thịt trên cổ y, họ đem y đến trước vị đại tướng. Khi thấy y, vị ấy suy nghĩ : “Có thể là kẻ này ăn thịt người hay trộn nó với các thứ thịt khác rồi đem bán, hoặc y giết người theo lệnh ai khác chăng?” và để hỏi vấn đề này, ông ngâm vần kệ đầu:
1. Hỡi người sành các món cao lương,
Đòi hỏi gì sao thật khẩn trương
Đã giục ngươi làm điều khủng khiếp?
Chỉ vì thực phẩm hoặc tiền vàng
Ngươi tàn sát những người này vậy,
Hỡi kẻ khốn kia lạc bước đàng?
Đầu bếp:
2. Chẳng vì thê tử hoặc thân bằng,
Quyến thuộc, bản thân hoặc bạc vàng,
Thần giết bà này vì Chúa thượng,
Vì vua ngự trị cả giang san
Vẫn ăn thịt ấy, thần gây tội
Chính là do lệnh của vua ban.
Tướng quân:
3. Nếu do mua chuộc để chìu lòng
Thèm khát tham tàn của Chúa công,
Ngươi đã phạm hành vi khủng khiếp,
Vậy ngày mai đến lúc hừng đông,
Chúng ta tìm Chúa công tham kiến,
Đưa cáo trạng ra trước mặt rồng.
Đầu bếp:
4. Kà-la đại tướng đáng tôn sùng,
Thần sẽ tuân lời của tướng công,
Đến rạng đông thần tìm Chúa thượng
Và đưa cáo trạng trước sân rồng.
Thế rồi vị đại tướng bảo đặt y xuống, trói thật chặt và rạng ngày mai, ông bàn bạc với tướng lãnh xong, và khi tất cả đều đồng ý, liền cho đóng quân canh mọi hướng. Khi đã kiểm soát kinh thành thật kỹ, ông buộc giỏ thịt vào cổ người đầu bếp và đưa y đến cung điện, còn cả kinh thành náo động lên.
Vua đã dùng điểm tâm ngày hôm trước, nhưng đã bỏ cơm tối và suốt đêm cứ ngồi mãi, chờ đợi người đầu bếp từng giây phút. Vua suy nghĩ: “Hôm nay nữa, gã đầu bếp cũng không đến, và ta nghe tiếng náo động khắp kinh thành. Chuyện gì sắp xảy ra chăng?” Vừa nhìn ra cửa sổ, vua thấy người ấy bị kéo đến đây như đã tả trên, và nghĩ rằng mọi sự đã bị phát giác, vua thu hết can đảm đi đến ngồi trên ngai. Khi tướng quân Kàlahatthi đến gần hỏi chuyện, vua đáp lời.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:
5. Vầng nhật vừa lên, mới rạng đông,
Đem theo đầu bếp đến sân rồng,
Kà-la tiến lại gần thiên tử,
Tâu những lời này với chúa công:
6.”Hỏa đầu quân, có đúng vậy chăng
Đưa lệnh vua ra tận phố phường,
Tàn sát nam nhi cùng phụ nữ,
Để dâng chúa thượng món cao lương
7.”Điều này thật đúng đấy, Kà-la,
Việc ấy được làm bởi lệnh ta,
Sao khiển trách tên đầu bếp nọ,
Vì làm theo lệnh của ta mà?”.
Khi nghe vầy, đại tướng suy nghĩ: “Chính miệng nhà vua thú nhận việc ấy, ôi thật là con người hung bạo! Bấy lâu nay vua đã và đang ăn thịt người. Ta phải ngăn chặn việc này mới được” và ông đáp :
– Tâu Chúa thượng, chớ làm việc này, xin chớ ăn thịt người!
– Này Kàlahatthi, khanh nói gì thế? Trẫm không thể ngừng được.
– Tâu Chúa thượng, nếu ngài không ngừng việc này lại, ngài sẽ hủy diệt cả mạng rồng cùng giang san này đấy.
– Cho dù vương quốc ta bị tiêu diệt, ta cũng không thể ngừng việc ấy được đâu.
Lúc ấy vị đại tướng muốn làm vua tỉnh trí hơn, liền kể một chuyện quá khứ để chứng minh.
*
Chuyện Thủy quái Ànanda
Ngày xưa có sáu thủy quái sống ở đại dương. Trong số đó có Ànanda, Timanda, Aijhohàra, ba con này dài năm trăm dặm; và Titimiti, Mingala, Timivapingala, ba con này dài một ngàn dặm; cả bọn chúng tự nuôi sống bằng rong biển sevala mọc trên da.
Trong bọn có Ànanda sống ở một phía đại dương và được nhiều loài thuỷ tộc đến viếng. Một hôm chúng suy nghĩ: “Các loài vật hai chân và bốn chân đều có vua, nhưng chúng ta không có. Vậy ta muốn tôn thủy quái này làm vua”. Thế là chúng đồng lòng tôn Ànanda lên làm vua, từ đó sáng chiều chúng đều đến bày tỏ lòng tôn kính vua mình.
Bấy giờ một hôm, Ànanda ở trên núi nọ ăn rong sevàla và vô ý ăn nhằm một con cá, vì tưởng đó là rong. Thịt nó thật ngon miệng nên thủy quái tự hỏi thứ gì mà ngọt ngào như vậy, liền lấy ra khỏi mồm, và nhìn thấy đó là một miếng cá. Nó suy nghĩ: “Bấy lâu nay ta không hề biết nên chẳng ăn thứ này, mọi sáng chiều loài cá vẫn thường đến để bày tỏ lòng tôn kính ta, ta sẽ ăn một hai con thôi, vì nếu khi chúng đang bị ta ăn và ta lộ rõ mọi việc cho chúng biết, thì không có con nào dám bén mảng đến gần ta, bọn chúng sẽ chuồn hết cả”.
Thế rồi nằm ẩn mình, thủy quái chụp những con cá nào đang bơi lùi lại phía sau và ăn thịt chúng. Khi số cá giảm dần, chúng suy nghĩ: “Hiểm họa này đe dọa chúng ta từ phía nào đây?”
Rồi một con cá tinh khôn trong bọn suy nghĩ: “Ta không hài lòng với việc Ànanda đang làm. Ta muốn tìm hiểu rõ vị ấy sắp làm gì đây”. Khi bầy cá đến kính lễ Ànanda, con cá tinh khôn kia ẩn mình trong lỗ tay Ànanda. Lúc bảo đàn cá quay về, Ànanda vồ lấy những con nào bơi lùi phía sau. Con cá khôn ngoan thấy việc này, thuật lại cho bọn kia, chúng đều kinh hoảng chạy trốn hết.
Từ ngày ấy, Ànanda thèm mùi cá không chịu ăn các thứ khác. Khi phát bệnh vì đói, nó suy nghĩ: “Đàn cá đi đâu cả trên đời này? Trong lúc tìm chúng, nó thấy một ngọn núi và suy nghĩ: “Vì sợ ta, chắc đàn em đang sống trong núi này. Ta sẽ bao vây núi và canh chừng thật kỹ”. Thế là vừa vây quanh núi với đầu đuôi cuộn tròn cả hai phía, nó suy nghĩ: “Nếu chúng ở đây, chúng sẽ trốn thoát”.
Khi nhìn thấy chính đuôi nó cuộn tròn quanh núi, nó lại nghĩ: “Con cá này sống gần núi và đang cố tránh ta”. Trong cơn cuồng nộ, nó chụp lấy đuôi mình dài năm mươi dặm mà tưởng là bắt được cá, nó ngấu nghiến kêu ken két, do đó phải chịu đau đớn hành hạ khủng khiếp.
Khi ngửi mùi máu, đàn cá tụ tập cùng nhau kéo từng mảnh đuôi của Ànanda ra ăn hết cho đến tận đầu. Vì thân xác khổng lồ như vậy, nó không thể nào trở mình được nên phải mạng chung. Rồi ở đó có một đống xương cao như núi.
Các vị nam nhi Thánh giả khổ hạnh khi du hành qua không gian, trông thấy đống xương, liền kể cho dân chúng nghe nên dân chúng khắp cõi Diêm-phù-đề (Ấn Độ) đều biết chuyện ấy. Kàlahatthi kể chuyện này để chứng minh và ngâm kệ:
8. A-nan ăn cá biết bao loài,
Lúc đám tùy tùng trốn thoát rồi,
Nó cắn đuôi mình nhai ngấu nghiến
Đến khi thủy quái phải lìa đời.
9. Nô lệ dục tham, chẳng biết gì
Thú vui nào khác, kẻ ngu si
Đui mù, phóng dật, gây đau khổ
Hủy diệt họ hàng, cả thiếu nhi,
Rồi biến thân thành mồi béo bở
Cho lòng tham quái ác ly kỳ.
10. Nghe lời thần nói, tấu Quân vương,
Món thịt người, xin chúa chờ ăn,
Việc ác kiêng làm, e ngại phải
Cùng chung số phận thật kinh hoàng
Của con thủy quái và đành để
Đất nước Chúa công phải mạt tàn.
Khi nghe vậy, vua bảo:
– Này Kàlahatthi, ta cũng biết một ví dụ như khanh. Rồi kể một chuyện cổ làm ví dụ chứng minh tính thèm thịt người của mình, vua ngâm kệ:
11. Nam nhi thừa kế Su-jà-ta
Đòi quả hồng đào, cứ hét la,
Cậu bé buồn phiền vì mất chúng,
Phải đành thiệt mạng, hóa ra ma.
12. Vậy xưa nay trẫm vẫn ăn luôn
Những món, Kà-la hỡi, cực sang,
Thiếu món thịt người, e có lẽ
Không còn đời sống để lo toan.
*
Chuyện Nam tử của phú ông Sujàta
Tương truyền ngày xưa một vị địa chủ trưởng giả có tên Sujàta ở Ba-la-nại làm chỗ cư trú trong hoa viên của mình và cung phụng năm trăm vị ẩn sĩ đến đấy từ vùng Tuyết Sơn để tìm muối và dấm. Trong nhà ông luôn có thực phẩm dọn sẵn mời các vị ấy, nhưng các vị thỉnh thoảng vẫn đi khất thực trong vùng quê và đem về những miếng hồng đào lớn để ăn.
Trong lúc các vị ấy đang ăn hồng đào đã đem về, Sujàta nghĩ thầm: “Hôm nay là ngày thứ ba hay thứ tư rồi mà các Thánh giả này chưa đến nhà ta đây. Không biết các ngài đã đi đâu trên đời này?” Thế rồi bảo cậu con trai cầm tay mình, ông đi đến đó trong lúc các vị ấy đang dùng bữa ăn. Lúc ấy một chú tiểu đang đưa nước để các vị trưởng lão súc miệng và chú đang ăn một miếng đào đỏ. Sujàta đảnh lễ các ẩn sĩ và khi đã an tọa, liền hỏi:
– Thưa các Tôn giả, các ngài đang dùng gì thế?
– Thưa gia chủ, những miếng đào đỏ lớn đấy.
Cậu bé nghe vậy cảm thấy thèm, vì thế vị trưởng chúng ẩn sĩ bảo cho cậu một miếng nhỏ. Cậu bé ăn đào và quá say mê mùi vị thơm ngon ấy nên cứ nằn nì đòi các vị cho thêm miếng nữa. Ông phú hộ đang nghe Pháp, liền bảo:
– Thôi đừng khóc, khi về nhà, con sẽ được ăn một miếng.
Ông đánh lừa cậu bé như vậy vì sợ các Thánh giả kia sẽ mệt nhọc bởi tiếng kêu khóc của con. An ủi cậu bé xong, ông từ giã hội chúng ẩn sĩ và về nhà. Từ lúc đến nhà, cậu bé cứ lãi nhải kêu to:
– Cho con một miếng.
Còn các ẩn sĩ lại bảo:
– Chúng ta đã ở đây lâu ngày rồi.
Và họ ra đi về vùng Tuyết Sơn. Vì không thấy cậu bé trong hoa viên, các ẩn sĩ gửi cho cậu một món quà gồm nhiều miếng xoài, đào, mít, chuối và vài trái cây khác nữa, tất cả trộn chung với đường mịn. Món trái cây trộn đường vừa đặt lên đầu lưỡi cậu bé liền gây tác dụng như một thứ thuốc độc giết người. Suốt bảy ngày cậu không ăn gì được và chết sau đó.
Vua kể chuyện này như một cách tự chứng minh. Lúc ấy Kàlahatthi nghĩ thầm: “Ông vua này thật quá tham ăn của ngon vật lạ. Ta sẽ kể nhiều ví dụ khác nữa”, và nói:
– Tâu Đại vương, xin chừa món này đi.
– Không thể được. – Vua đáp.
– Nếu ngài không chừa được, ngài sẽ bị gia tộc từ bỏ dần và tước mất hết vương quyền vinh hiển. Xin hãy nghe đây.
*
Chuyện Nam tử Bà-la-môn.
Ngày xưa cũng tại chính trong kinh thành Ba-la-nại này có một gia đình Bà-la-môn tuân hành Ngũ giới. Nhà này chỉ sinh được một con trai độc nhất nên được cha mẹ yêu quý và là niềm vui của hai thân, một cậu trai thông minh, am hiểu thấu suốt ba tập Vệ-đà.
Cậu thường đi chu du cùng đám thanh niên đồng tuổi với cậu. Các người kia trong đám ấy thường ăn cá thịt cùng các thức tương tự và uống rượu mạnh. Còn cậu trai này không ăn thịt cũng không uống rượu mạnh. Chúng bạn chợt suy nghĩ: “Thằng bé này vì không uống rượu mạnh nên không phải trả tiền, ta phải lập mưu bắt nó uống mới được”.
Thế rồi bọn chúng tụ tập nhau lại, bảo:
– Này hiền hữu, chúng ta hãy tổ chức đám hội.
Cậu đáp:
– Các bạn uống rượu mạnh nhưng ta thì không, vậy các bạn cứ đi mà không có ta.
– Này hiền hữu, ta sẽ lấy sữa để bạn uống.
Cậu đồng ý nói:
– Được rồi.
Bọn trai lêu lổng ấy ra vườn lấy một ít rượu mạnh buộc vào một ngọn lá làm thành cái chén và đặt nó giữa đám lá sen. Thế rồi khi họ bắt đầu uống, họ cho cậu trai một ít sữa. Một tên ranh mãnh trong bọn kêu lớn:
– Hãy đem cho ta một ít mật hoa sen.
Sau khi đã bảo đem mật ấy vào, y đục một lỗ dưới đáy ngọn lá nằm giữa đám sen kia và đưa lên miệng hút vào. Bọn kia cũng bảo đem một ít cho họ uống. Cậu trai hỏi đó là thức gì, và uống một ít rượu mạnh cứ tưởng đó là mật hoa sen.
Sau đó họ lại đưa cho cậu một ít thịt hầm và cậu cũng ăn luôn.
Khi cậu đã say vì uống nhiều ngụm rượu liên tiếp họ bảo cậu:
– Đây không phải mật hoa sen đâu. Rượu mạnh đấy.
Cậu đáp:
– Bấy lâu nay ta chưa hề biết vị ngọt là thế nào cả. Này ta bảo, hãy đem cho ta thêm rượu mạnh nữa đi!
Họ mang rượu đến và một lần nữa trao cho cậu vì cậu rất thèm khát. Sau đó khi cậu đòi thêm nữa, họ bảo cậu hết sạch rượu rồi.
Cậu nói:
– Mau lên, ta bảo kiếm thêm cho ta nữa đi.
Và cậu đưa cho họ chiếc nhẫn có tín hiệu của cậu.
Sau khi uống với họ suốt ngày, cậu say túy lúy, mắt đỏ ngầu như máu, người run rẩy, nói lảm nhảm, cậu về nhà nằm vật xuống. Lúc ấy cha cậu nhận thấy cậu đã uống rượu, đến khi hiệu lực của rượu đã qua hẳn, ông bảo cậu:
– Này con, con đã làm một việc rất sai lầm, là người trong gia tộc Bà-la-môn mà con uống rượu mạnh, từ nay đừng bao giờ làm vậy nữa.
– Cha bảo sao? Suốt đời con, chưa bao giờ con nếm được vị gì ngon ngọt đến thế.
Vị Bà-la-môn cứ nài nỉ con chừa rượu. Cậu đáp:
– Con không thể bỏ được.
Sau đó vị Bà-la-môn suy nghĩ: “Nếu như vậy thì truyền thống gia tộc ta sẽ bị hủy hoại và tài sản ta cũng tiêu tan”. ông liền ngâm kệ này.
13. Nam tử La-môn tộc quý cao,
Là trai khả ái, lại thanh tao,
Con đừng uống vật đầy ghê tởm
Không một La-môn hưởng thụ nào.
Sau những lời này, ông lại bảo:
– Này con yêu, phải chừa rượu đi, nếu không cha sẽ tống con ra khỏi nhà và xin vua đuổi con khỏi vương quốc này.
Cậu trai đáp:
– Cho dù vậy, con cũng không thể bỏ rượu mạnh.
Và cậu ngâm hai vần kệ:
14. Bởi vì cha muốn cản ngăn con,
Uống thứ này hương vị tuyệt ngon,
Con sẽ đi xa bất kể số,
Tìm nơi đâu rượu vẫn trường tồn!
15. Con sẽ ra đi vội bước chân,
Chẳng còn ở lại với song thân,
Vì nay thấy mặt con, e hẳn
Cha ghét con cay đắng bội phần!
Cậu lại còn nói thêm:
– Con quyết sẽ không chừa rượu đâu. Cha cứ làm gì tùy ý.
Lúc ấy vị Bà-la-môn đáp:
– Được rồi, nếu con từ bỏ cha mẹ thì cha mẹ cũng từ bỏ con luôn.
Và ông ngâm vần kệ này:
16. Ta sẽ tìm vài cậu thiếu niên
Để cho thừa kế mọi kim tiền,
Cút đi, đồ khốn, nơi ta chẳng
Nghe thấy tên ngươi đáng rủa nguyền!
Sau đó, đem cậu con ra tòa án, ông truất quyền thừa kế của cậu và sai đuổi chàng ra khỏi nhà. Cậu trai về sau làm kẻ khốn khổ cùng bần, mặc áo quần vải thô, cầm bát khất thực trong tay đi lang thang xin ăn rồi dựa vào một bức tường và chết.
Kàlahatthi kể chuyện này để làm bài học răn vua, và bảo:
– Tâu Đại vương, nếu ngài từ chối nghe lời chúng thần, thì họ sẽ sai người đuổi ngài ra khỏi quốc độ này.
Nói vậy xong, ông ngâm kệ:
17. Vậy lắng nghe này, tấu Đại vương,
Tuân theo lời dặn của ngu thần,
Nếu không sẽ giống chàng say rượu
Ngài bị đuổi ra khỏi thổ cương.
Ngay sau ví dụ được Kàlahatthi dẫn chứng như vậy vua cũng không thể từ bỏ thói quen của mình, và kể một chuyện khác để chứng minh:
18. Đồ đệ của chư Đại Thánh hiền,
Su-jà ta, cổ tích lưu truyền,
Nhịn luôn thực phẩm cùng đồ uống,
Vì đã đắm say một nữ tiên.
19. Như đầu ngọn cỏ đọng hơi sương
So với mọi nguồn nước đại dương,
Cũng vậy tình người đem sánh với
Ái tình dâng tặng một tiên nương.
20. Vậy xưa nay trẫm vẫn ăn luôn
Những món, Kà-la hỡi, cực sang,
Thiếu món thịt người, e có lý
Không còn đời sống để lo toan.
*
Chuyện Phú ông Sujàta.
Chuyện này cũng giống như chuyện đã kể trên.
Tương truyền phú ông Sujàta này thấy rằng các vị ẩn sĩ kia không trở về vào thời các vị đang ăn những miếng hồng đào lớn, liền nghĩ thầm: “Ta không biết tại sao các vị ấy không trở về. Nếu các vị đi nơi khác, ta sẽ đi tìm cho ra, hơn nữa, ta lại muốn nghe các vị thuyết Pháp”.
Thế rồi ông ra hoa viên nghe vị Trưởng hội chúng ấy thuyết Pháp, và khi mặt trời lặn, dù ông được bảo ra về, ông vẫn nói:
– Đệ tử muốn ở lại đây hôm nay.
Và đảnh lễ hội chứng hiền nhân xong, ông vào am tranh của mình nằm xuống. Ban đêm, Sakka Thiên chủ được cả đoàn thiên nhân hộ tống, cùng với các thị nữ của ngài, đến đảnh lễ đám Thánh nhân kia khiến cả vùng thảo am sáng rực lên.
Sujàta không biết chuyện gì, đứng dậy nhìn qua khe hở của am tranh, nhìn thấy Sakka đến đảnh lễ hội chúng Thánh nhân và được cả đám tùy tùng tiên nữ Apsarasas hộ tống. Vừa thấy các nàng tiên lòng ông đã bùng lên dục vọng như lửa đốt. Thiên chủ Sakka an tọa và sau khi nghe thuyết Pháp xong, trở về cõi của ngài.
Hôm sau vị địa chủ đến đảnh lễ các ẩn sĩ và hỏi:
– Bạch các Tôn giả, vị nào đêm qua đến đảnh lễ các vị?
– Thưa tôn ông, đó là Sakka Thiên chủ.
– Thế các vị vây quanh ngài là ai?
– Đó là các tiên nữ Apsarasas.
Sau khi đảnh lễ các vị khổ hạnh, ông về nhà và từ lúc đó, ông cứ điên cuồng kêu gào: “Cho ta một nàng tiên Apsaras”.
Đám quyến thuộc vây quanh ông, tự hỏi không biết ông có bị quỷ ám chăng, và họ búng tay.
Ông bảo:
– Không phải ta nói đến chuyện búng tay này đâu mà chuyện các nàng tiên Apsaras kia.
Khi họ mặc y phục chỉnh tề và đưa vào cho ông một bà vợ hay thậm chí một kỹ nữ sang trọng và nói:
– Đây là một nàng tiên Apsaras.
Ông đáp:
– Đây không phải là tiên Apsaras, mà là con quỷ cái!
Rồi ông cứ lảm nhảm la hét điên cuồng.
– Cho ta một nàng tiên Apsaras!
Sau đó không chịu ăn uống gì cả, ông chết đi.
Khi nghe vậy, Kàlahatthi tự nhủ: “Ông vua này thật là kẻ đại tham của lạ. Ta quyết làm cho vua tỉnh trí hơn lên”. Rồi ông nói:
– Những chim kim nga bay qua không gian cũng chết vì ăn thịt đồng loại của chúng.
Và để chứng minh việc này, ông ngâm hai vần kệ:
21. Như các thiên nga có sắc vàng
Du hành qua giữa cõi không gian,
Thảy đều phải chết vì sinh sống
Bằng thực phẩm kia trái lẽ thường.
22. Cũng vậy, xin ngài hỡi Đại vương,
Lắng nghe thần nói thật tinh tường;
Vì ăn thực phẩm này phi pháp
Dân sẽ đuổi ngài khỏi thổ cương.
*
Chuyện đàn Kim Nga.
Tương truyền ngày xưa chín mươi ngàn thiên nga sống ở Kim động trên đỉnh núi Cittakùta. Suốt bốn tháng mùa mưa, chúng không di chuyển ra ngoài. Nếu chúng làm vậy, đôi cánh chúng sẽ ướt sũng nước, chúng sẽ không thể bay xa và sẽ rơi xuống biển. Do đó chúng không đi ra ngoài. Nhưng khi mùa mưa đến, chúng nhặt thóc lúa hoang ở một cái hồ thiên nhiên đem về chất đầy hang và sống bằng thóc lúa.
Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau khi không vào hang, thì một con nhện unnanabhi to bằng cái bánh xe ở cửa hang vẫn thường giăng tơ hằng tháng, mỗi sợi tơ của nó to bằng sợi dây thừng bò. Đàn thiên nga cho một thiên nga còn trẻ hai phần thức ăn vì nghĩ rằng nó có thể phá thủng màn nhện kia.
Khi trời trở nên quang đãng, con thiên nga trẻ này đứng trước chúng phá hủy màn nhện và cả đoàn thoát ra bằng cách này.
Bấy giờ có một mùa mưa kéo dài năm tháng nên lương thực của đàn thiên nga cạn dần, chúng hỏi ý kiến nhau phải làm gì, rồi nói:
– Nếu muốn sống, chúng ta phải lấy trứng.
Trước hết, chúng ăn trứng, rồi đến lượt ngỗng con và kế đó là ngỗng già. Sau năm tháng mùa mưa chấm dứt, con nhện đã giăng năm màn lưới to tướng, còn đàn thiên nga, vì ăn thịt đồng loại chúng, đã trở nên yếu đuối. Con ngỗng trẻ kia đã nhận phần ăn gấp đôi, cố phá vỡ được bốn màn nhện, nhưng không thể phá nổi màn thứ năm và bị dính chân vào đó. Thế rồi con nhện cắt đầu nó và hút máu. Hết ngỗng đầu rồi đến lượt ngỗng thứ hai đến phá màn nhện, con nhện suy nghĩ: “Đây lại thêm một con ngỗng nữa dính vào chỗ ấy”, và hút máu cả bầy, thời bấy giờ dòng giống thiên nga dhatarattha phải tuyệt diệt, tương truyền như vậy.
*
Vua nôn nóng kể thêm một chuyện chứng minh, nhưng đám thị dân đứng lên nói:
– Thưa Đại tướng, ngài đề nghị phải làm gì? Ngài sẽ tiến hành ra sao vì nay ngài đã bắt được tên ăn thịt người dã man ấy? Nếu y không từ bỏ việc ấy, hãy sai người đuổi y ra khỏi vương quốc này.
Và quần chúng không chịu để cho vua nói lời nào nữa. Khi nghe câu chuyện chung của quần chúng, vua kinh hoảng không nói gì thêm, và một lần nữa vị đại tướng hỏi vua:
– Tâu Đại vương, ngài có thể từ bỏ việc ấy chăng?
– Không thể được. – Vua đáp.
Thế rồi vị đại tướng sắp vào một phía tất cả hậu cung của vua, gồm các vương tử và công chúa trang sức thật lộng lẫy và nói:
– Tâu Đại vương, hãy ngắm vòng quyến thuộc, đám cận thận và cảnh huy hoàng vương giả của ngài, xin đừng để ngài phải tiêu tan tất cả, mà xin ngài hãy ngừng ăn thịt người.
Vua đáp:
– Tất cả mọi thứ này không còn thân thiết với ta hơn món thịt người.
– Vậy xin Đại vương hãy ra đi khỏi kinh thành và quốc độ này.
– Kàlahatthi, – vua đáp – ta không cần quốc độ, ta sẵn lòng ra đi nhưng hãy cho ta một ân huệ: hãy cho ta lấy thanh kiếm và người đầu bếp của ta.
Do đó, họ cho vua lấy một cây kiếm, một cái nồi để nấu thịt người, và một cái thùng cùng người đầu bếp, họ đuổi vua ra khỏi xứ sở.
Đem theo người đầu bếp, vua ra khỏi kinh thành, đi vào rừng làm chỗ cư trú dưới gốc cây đa. Khi sống ở đó vua thường đứng trên con đường đưa vào rừng, và giết người, đem xác về đưa cho người đầu bếp, y nấu thịt, dọn lên và cả hai đều sống theo cách ấy.
Mỗi khi vua xông ra, hét lớn: “Ta đây là tên cướp ăn thịt người!” không ai đứng vững được nữa, họ đều ngã xuống đất, người nào vua thích thì vua cứ tóm lấy, xách chổng ngược chân lên trời hay không đều có thể cả, rồi đưa cho người đầu bếp.
Một hôm, vua không tìm ra người nào trong rừng cả khi về nhà, người đầu bếp hỏi:
– Tâu Đại vương, thế nào đây?
Vua bảo y đặt nồi lên lò lửa.
– Nhưng thịt đâu, tâu Đại vương?
– Ồ ta sẽ tìm ra thịt mà. – Vua đáp.
Người đầu bếp suy nghĩ : “Thôi chết ta rồi? ” và vừa run rẩy, y vừa nhóm bếp và đặt nồi lên lò. Sau đó kẻ ăn thịt người giết y với một nhát kiếm và nấu thịt ăn. Từ đó vua hoàn toàn cô độc và phải nấu ăn cho mình.
Tiếng đồn vang dậy khắp cõi Diêm-phù-đề (Ấn Độ): “Kẻ ăn thịt người kia giết hại khách qua đường”. Thời ấy có một vị Bà-la-môn giàu đang đi buôn với năm trăm cỗ xe hàng hóa từ Đông sang Tây và suy nghĩ: “Dân chúng đồn rằng kẻ ăn thịt người ấy giết người trên xa lộ. Ta sẽ đi xuyên qua rừng này bằng cách trả tiền mãi lộ”.
Thế là ông trả một ngàn đồng tiền cho đám dân sống ở lối đi vào rừng, dặn họ chở ông an toàn qua khu rừng rồi lên đường cùng với họ. Ông đặt cả đoàn xe đi trước và sau khi tắm gội, xoa dầu thơm và phục sức lộng lẫy, ông ngồi vào chiếc xe êm ái do đôi bò trắng kéo, và được cả đoàn hộ tống, ông khởi hành cuối cùng.
Kẻ ăn thịt người trèo lên cây ngồi rình đợi người, nhưng dù y không cảm thấy thèm ăn bất cứ người nào trong đoàn xe, vừa chợt thấy vị Bà-la-môn thì nước miếng trong mồm y nhỏ ra vì thèm ăn thịt vị ấy. Khi vị Bà-la-môn đến gần, y xưng danh hiệu thét lớn:
– Ta là tên cướp ăn thịt người đây?
Vừa vung kiếm lên giống như một người tung cát mù mắt kẻ khác, y nhào tới đoàn người và không ai có khả năng chống cự lại y, mà tất cả đều ngã sống soài xuống đất.
Vừa chụp lấy chân vị Bà-la-môn đang ngồi trên chiếc xe êm ái kia, tên cướp ném ông lên lưng mình, đầu dốc ngược xuống đất, đập mạnh vào gót chân y trong khi kéo ông đi xa. Đám người kia đứng dậy kêu nhau:
– Này bạn hãy dậy mau lên. Ta đã nhận một ngàn đồng tiền từ tay vị Bà-la-môn. Ai trong bọn ta ra dáng nam nhi đây? Cả bọn ta dù mạnh hay yếu, đều phải đuổi theo nó một đoạn đường.
Họ đuổi theo y và kẻ ăn thịt người dừng lại nhìn lui khi không thấy ai, lại tiếp tục đi chầm chầm. Lúc ấy một người bạo gan chạy hết tốc lực bắt kịp y. Khi thấy gã kia, kẻ cướp nhảy lên một hàng rào, dẫm nhầm một mảnh gỗ cây keo nhô ra ở đầu bàn chân khiến y bị thương, phải lê bước trong khi máu rỉ ra từ vết thương.
Lúc ấy người đuổi theo thấy vậy liền nói:
– Chắc chắn ta đã làm y bị thương, các bạn cứ bám sát theo, ta sẽ bắt được y.
Họ thấy y yếu sức quá liền họp sức đuổi bắt y. Khi thấy mình bị đuổi theo y, kẻ cướp thả vị Bà-la-môn và tìm cách thoát thân.
Đám người hộ tống vị Bà-la-môn suy nghĩ ngay khi cứu được ông: “Chúng ta phải làm gì với kẻ cướp này nữa?”, rồi quay về.
Còn kẻ ăn thịt người đi đến gốc đa, nằm xuống giữa đám cây con và khấn vái thần cây này:
– Lạy nữ thần cây, nếu trong bảy ngày bà có thể làm lành vết thương của ta, thì ta nguyện sẽ tẩm thân cây bằng máu lấy từ cổ họng của một trăm lẻ một vương tử khắp cõi Diêm-phù-đề, và treo ruột gan chúng quanh thân cây rồi dâng lễ tế đàn bằng năm loại thịt ngon ngọt.
Bấy giờ do y không có gì để ăn uống, thân thể y hao mòn dần và trong bảy ngày, vết thương đã lành. Y nhận thấy y lành bệnh là nhờ nữ thần cây đa, và chỉ trong vài ngày, y phục hồi sức mạnh bằng cách ăn thịt người, nên y suy nghĩ: “Vị thần đã giúp đỡ ta rất nhiều. Ta phải thực hiện lời thề nguyện ấy”.
Y cầm kiếm xông ra từ gốc cây và lên đường với mục đích đem về các vương tử.
Bấy giờ, một thần Dạ-xoa, đã từng làm bạn đường cùng đi đây đó với y và cùng ăn thịt người, vì trong một tiền kiếp, y cũng đã là một Dạ-xoa, chợt trông thấy y và biết rằng trong một tiền kiếp y chính là bạn mình, liền hỏi:
– Này bạn có nhận biết ta chăng?
– Ta không biết.
Sau đó Dạ-xoa kể cho kẻ cướp nghe một việc mà cả hai đã cùng làm trong đời trước, kẻ ăn thịt người nhận ra bạn và chào hỏi ân cần. Khi được hỏi tái sinh thời nào, ở đâu, y kể cho bạn nghe nơi sinh trưởng của mình, trước kia đã bị đuổi ra khỏi vương quốc ra sao và hiện đang ở đâu. Y còn kể thêm cho bạn nghe y đã bị thương vì mảnh gỗ như thế nào và bây giờ y đang viễn du để giải lời thề với vị nữ thần cây.
– Ta sẽ phải vượt qua nỗi gian khổ này nhờ sự trợ giúp của bạn: này bạn, chúng ta hãy cùng đi. – Y nói.
– Ta không đi được, nhưng có việc này ta có thể giúp bạn. Ta biết chắc chắn một lá bùa đặc biệt có lời quý vô giá. Nó giữ vững sức mạnh, tốc độ của đôi chân và tăng cường uy lực. Hãy học bùa chú này.
Y đồng ý ngay và vị quỷ thần trao bùa cho y rồi ra đi. Kẻ ăn thịt người học thuộc lòng thần chú ấy, từ đó y đi nhanh như gió và rất gan dạ. Trong vòng bảy ngày y tìm được một trăm lẻ một vị vua đang đi trên đường tới ngự viên và nhiều nơi khác, y chồm lên các vị ấy nhanh như gió cuốn, xưng danh hiệu xong, y nhảy quanh và hét lớn khiến họ kinh hoảng. Rồi y nắm lấy chân họ, dốc ngược đầu xuống đất, mang đi thật nhanh như gió cuốn.
Kế đó, y đục lỗ trong lòng bàn chân họ và treo họ lên bằng dây trên cây đa, gió đánh lên họ khi họ vừa chạm đầu ngón chân xuống đất, họ treo lủng lẳng trên cây, quay cuồng như chuỗi hoa héo trong giỏ.
Nhưng kẻ ăn thịt người lại suy nghĩ: “Sutasoma là thầy giáo riêng của ta. Đừng để cho toàn cõi Diêm-phù-đề phải suy tàn”. Vì thế y không mang vị ấy về.
Khi có ý định dâng lễ tế thần cây, y nhóm lửa và ngồi xuống mài cọc nhọn. Vị nữ thần cây suy nghĩ: “Y chuẩn bị dâng lễ tế đàn cho ta, nhưng không phải chính ta đã chữa lành vết thương của y. Nay y sắp làm một việc sát sinh trọng đại. Phải làm gì đây? Ta không đủ khả năng ngăn cản y”.
Vì thế bà vội đi kể với Tứ Đại Thiên vương về sự việc này và xin các vị ngăn cản y. Khi các vị đáp không thể làm việc ấy, bà đến yết kiến Sakka Thiên chủ, kể cho ngài toàn thể câu chuyện và xin ngài ngăn cản y. Ngài nói:
– Ta không thể làm việc ấy, nhưng ta sẽ chỉ cho ngươi một người có thể làm được.
– Đó là ai? Bà hỏi.
– Trong thế giới chư Thiên và loài người, không có ai khác ngoại trừ Sutasoma, vương tử xứ Kuru ở trong kinh thành Indapatta. Ngài sẽ giáo hóa cho y thuần thục, sẽ điều phục y để cứu mạng các vua kia, chữa cho y khỏi bệnh ăn thịt người và tưới nước cam lồ khắp cõi Diêm-phù-đề. Nếu ngươi muốn cứu mạng các vua kia, hãy bảo y trước tiên phải đem Sutasoma đến rồi dâng lễ tế đàn lên cây.
– Thật chí lý. – Vị thần đáp.
Rồi bà vội vàng ra đi, giả dạng một ẩn sĩ đến gần kẻ ăn thịt người. Nghe tiếng chân, y nghĩ thầm: “Một vua nào đó đã trốn thoát được chăng?” Vừa nhìn lên thấy ẩn sĩ, y lại nghĩ: “Các ẩn sĩ chắc chắn đều là Sát-đế-lỵ (quý tộc). Nếu ta bắt được nó, ta sẽ làm tròn con số một trăm lẻ một vua và dâng lễ”.
Y đứng lên mang kiếm trong tay đuổi theo ẩn sĩ nhưng dù y đã săn lùng vị ấy suốt ba dặm đường, y vẫn không bắt kịp vị ấy và mồ hôi đổ ròng ròng khắp tứ chi. Y nghĩ thần: “Trước kia ta từng đuổi theo và bắt được voi, ngựa hoặc xe chạy hết tốc lực, nhưng hôm nay dù ta đã chạy hết sức mình cũng không thể bắt được vị ẩn sĩ này vẫn đang đi thật tự nhiên. Vì lý do gì vậy?” Rồi y lại nghĩ: “Các ẩn sĩ thường có thói quen vâng lời: nếu ta bảo vị ấy dừng lại và vị ấy làm theo, ta sẽ bắt lấy”. Y liền kêu lớn:
– Thánh giả, hãy đứng lại:
– Ta đang đứng đây. – Vị ấy đáp – Ngươi cũng thử đứng lại nào.
Y đáp:
– Ô kìa, các ẩn sĩ dù có phải cứu mạng mình cũng không nói dối, nhưng ngài lại nói dối đấy.
Và y ngâm kệ:
23. Mặc dù ta bảo đứng yên ngay,
Ngài vẫn phóng mình tựa gió bay,
Ngài lại thét: “Này! Ta đứng đó!”
Chắc là ngài nói dối ta đây.
Chuyện này quả thật không phù hợp.
Ẩn sĩ ôi! Mang lấy kiếm này,
Ngài phải giả làm tên bất hại
Điểm lông chim hạc trắng, con mây.
Kế đó nữ thần đáp đôi vần kệ:
24. Ta vẫn lòng theo đạo chánh chân,
Chẳng thay tên họ hoặc thân nhân,
Cường gian đây sống đời phù phiếm,
Phút chốc đọa vào ngục khổ thân.
25. Can đảm lên đi, hỡi Chúa công,
Bắt So-ma vĩ đại anh hùng,
Đem về đây để ngài dâng lễ
Sẽ đạt thiên đường, có biết không?
Cùng với những lời này, nữ thần cởi lớp áo giả dạng ẩn sĩ và xuất lộ nguyên hình, chói sáng giữa bầu trời như vầng nhật. Kẻ ăn thịt người nghe bà nói và ngắm hình dung bà, liền hỏi bà là ai. Khi nghe bà đáp bà ra đời làm vị thần cây này, y thích thú nghĩ thầm: “Ta đã trông cậy thần hộ mạng của ta rồi” và nói:
– Thưa nữ thần tiên, xin đừng lo ngại về Sutasoma, mà xin ngài hãy nhập vào thân cây lần nữa.
Vị thần nhập vào thân cây ngay trước mắt y. Vừa lúc ấy mặt trời lặn và mặt trăng lên. Kẻ ăn thịt người vốn tinh thông các kinh Vệ-đà và các sách bổ sung vào kinh ấy, lại quen với cách vận hành của các thiên thế, nên khi nhìn lên trời, y suy nghĩ: “Ngày mai sẽ có chòm sao Phussa xuất hiện, Sutasoma sẽ đến tắm ở ngự viên và ta sẽ ra tay với vua ấy”. Nhưng vì vua ấy có một vệ sĩ lực lưỡng và dân chúng khắp cõi Diêm-phù-đề sẽ đến hộ vệ vua trong vòng ba dặm, vậy vào canh một trước khi vệ sĩ đóng quân, ta sẽ đến ngự viên Migàcira, xuống hồ hoàng gia và đứng đó”.
Thế rồi y xuống hồ và đứng đó, che đầu bằng ngọn lá sen. Do uy lực vĩ đại của y, các loài cá, rùa đều lùi lại phía sau và bơi quanh từng đàn lớn bên bờ nước. Ta có thể hỏi: Do đâu y lại có cảnh vinh quang này? Đó là do lòng mộ đạo của y trong đời trước.
Vào thời đức Phật Kassapa (Ca-diếp), y bắt đầu phân phát sữa theo phiếu. Nhờ vậy, y trở thành người rất có thế lực, và sau khi bảo Tăng chúng dựng sảnh đường để đốt lửa chống mùa lạnh, y cúng dường lửa, củi và cái rìu chẻ củi. Do kết quả việc này, y rất nổi tiếng. Vì thế bây giờ, khi y vào ngự viên, trời chỉ vừa rạng đông, quân sĩ đã canh phòng suốt ba dặm đường chung quanh, còn vua Sutasoma, sau buổi điểm tâm lúc sáng sớm, đã ngự lên mình voi được tô điểm yên cương thật lộng lẫy, với bốn đội quân hùng hậu hộ giá tiến ra khỏi kinh thành.
Ngay lúc ấy, một Bà-la-môn tên Nanda đi từ Takkasilà, mang theo bốn vần kệ, mỗi vần đáng giá một trăm đồng tiền, vừa đến kinh thành sau cuộc hành trình, dài một trăm hai mươi dặm, và trú ngụ ở một vùng ngoại ô.
Vừa rạng đông, vị ấy vào thành thấy vua đang ngự xa giá đi qua đông môn, liền giơ tay lên hô lớn: “Vạn tuế Đại vương!” Bấy giờ vua bị viễn thị, trong khi đang cỡi voi, vua thấy cánh tay giơ lên của vị Bà-la-môn đang đứng trên một mô đất cao, liền tiến đến gần trên mình voi vừa ngâm kệ vừa hỏi như sau:
26. Trẫm hỏi ngài sinh ở xứ nào,
Đến đây, Đạo sĩ hỡi, vì sao?
Nói rồi, nay trẫm liền ban tặng
Bất cứ điều chi đấy nguyện cầu.
Kế đó vị Bà-la-môn đáp lời vua:
27. Bốn vần thi kệ, tấu Quân vương,
Ý nghĩa sâu xa tựa hải dương,
Mang đến đây, xin nghe thật kỹ
Cao siêu huyền bí thảy am tường.
Vị ấy tiếp:
– Tâu Đại vương, bốn vần thi kệ này do đức Phật Kassapa dạy tiểu thần, mỗi vần đáng giá một trăm đồng tiền. Sau khi nghe xong, nếu Đại vương muốn dâng tế lễ nước trái cây soma, tiểu thần sẽ đến chỉ dẫn Đại vương.
Vua vô cùng hân hoan phán:
– Này Tôn sư, ngài khéo làm việc này lắm, nhưng hôm nay trẫm không trở về triều được. Hôm nay là ngày giao hội của chòm sao Phussa, là ngày trẫm đi gội đầu. Khi trở về, trẫm sẽ nghe lời ngài. Xin đừng phật ý vì trẫm.
Cùng với những lời này, vua ra lệnh đám quần thần:
– Các khanh đến nhà một Bà-la-môn nào đó chuẩn bị một sàng tọa và sắp đặt một nơi ăn dưới mái hiên.
Xong vua đi vào ngự viên. Khu vườn được bao bọc bởi một tường thành cao mười tám cubit (1 cubit: 45cm) và được bầy voi canh phòng chung quanh đứng kề sát nhau. Kế tiếp là bầy ngựa, đoàn xe, cuối cùng là đám xạ thủ và các bộ binh khác; thật giống như cả đại dương dậy sóng là đạo quân được di chuyển đến đây.
Sau khi đã trút bỏ các vật trang sức nặng nề và được cạo râu, gội đầu với dầu thơm rồi, vua đi tắm hồ sen trong dáng diện uy nghi cao quý, và khi bước ra khỏi nước, vua đứng đó trong bộ áo tắm, quân hầu liền đem vòng hoa thơm ngát đến trang điểm cho ngài.
Kẻ ăn thịt người suy nghĩ: “Khi đã phục sức đầy đủ, nhà vua hẳn sẽ nặng lắm. Ta muốn bắt lấy vua khi còn nhẹ để mang đi”. Thế rồi vừa thét lớn vừa nhảy quanh và vung kiếm trên đầu nhanh như chớp, y xưng danh hiệu xong liền nói to:
– Này, ta đây là kẻ cướp ăn thịt người.
Rồi đặt ngón tay trên trán vua, y bước ra khỏi nước.
Ngay khi nghe tiếng thét, các quản tượng cùng đàn voi, các kỵ mã cùng đàn ngựa, các quản xe cùng đàn xe đều ngã xuống đất, cả đoàn quân sĩ đều thả vũ khí đang cầm và nằm sát xuống bụng.
Kẻ ăn thịt người chụp lấy Sutasoma dựng ngài thẳng đứng lên. Tất cả đám vương tử trước kia, y đều bắt lấy từ bàn chân và dốc ngược đầu xuống đất, rồi kéo lê họ đi khiến đầu họ đập vào gót chân y, nhưng nay đến gần Bồ-tát, y cúi xuống nhắc ngài lên và đặt trên vai mình.
Nghĩ rằng có lối đi quanh qua cổng thành, y nhảy lên bức thành cao mười tám cubit, ngay tại điểm đối diện con đường ấy, y vừa tiến lên vừa dẫm chân lên trán bầy voi làm rỉ ra chất dịch, lật nhào chúng xuống như thể các đỉnh núi. Kế đó y dẫm chân lên lưng bầy ngựa, dù thường ngày chúng nhanh như gió và quý vô cùng, rồi cũng đạp chúng ngã xuống đất.
Sau đó, y bước lên mặt trước của các cỗ xe lộng lẫy chẳng khác gì người quay con vụ (con cù), hay như thể người dẫm nát cây phalaka xanh biếc hay đám lá bàng, và thoắt một cái, y đã chạy xa ba dặm.
Rồi muốn biết có ai chạy theo để cứu Sutasoma không, y nhìn lên và thấy không ai, y lại đi chầm chậm. Khi nhận ra những giọt nước rơi xuống mình từ tóc Sutasoma, y nghĩ thầm: “Không ai sống mà khỏi sợ chết. Chắc có lẽ Sutasoma cũng đang khóc vì sợ đấy”, và y ngâm kệ:
28. Những bậc uyên thâm, các trí nhân
Tư duy cao cả phát sinh luôn,
Chẳng bao giờ khóc, tìm an trú
Bậc Thánh xua tan nỗi khổ buồn.
29. Có phải vợ con hoặc họ hàng,
Bản thân, kho thóc, bạc hay vàng,
Đã làm lệ chảy, So-ma hỡi,
Đại đế Ku-ru, đáp rõ ràng.
Sutasoma đáp:
30. Không khóc gì cho chính bản thân,
Vợ con, đất nước hoặc kho tàng,
Thánh hạnh ngày xưa ta vẫn giữ,
Khóc vì lời hứa chẳng chu toàn.
31. Trước một La-môn, đã hứa lời,
Khi ta trị nước với quyền oai,
Lời kia ta ước mong gìn giữ
Danh dự cứu xong, trở lại ngài!
Kẻ ăn thịt người đáp lại:
32. Ta chẳng tin rằng có thế nhân
Vận may thoát móng tử ma thần,
Trở về nộp mạng cho cừu địch,
Nếu để ngài đi, chẳng phục hoàn.
33. Thoát kè sát nhân ác, trở về
Hoàng cung, mộng ước đẹp tràn trề,
Cuộc đời thân thiết đầy lôi cuốn
Hồi phục cho ngài phải đắm mê.
Vì lý do gì trên thế giới
Mà ngài trở lại với ta hề?
Khi nghe lời này, bậc Đại Sĩ vẫn gan dạ như sư tử, đáp:
34. Vô tội, con người thích chết hơn
Sống mang đầy tội đáng khinh nhờn,
Nếu vì cứu mạng, buông lời dối
Người chẳng thoát đâu ngục khổ buồn.
35. Gió có thể lay chuyển núi cao,
Trời, trăng rụng xuống cõi trần lao,
Thưa ngài, và mọi dòng sông cạn,
Nhưng vọng ngôn, ta chẳng phạm vào.
Dù Ngài nói vậy, kẻ ăn thịt người vẫn không tin ngài. Do đó, Bồ-tát suy nghĩ: “Kẻ này không tin ta; ta quyết làm cho y tin bằng một lời thề”, và bảo:
– Thưa Tôn giả ăn thịt người, xin hãy thả ta xuống khỏi lưng, ta sẽ thề nguyền khiến ngài tin ta.
Sau những lời này, ngài được kẻ ăn thịt người đưa xuống, đặt trên mặt đất và ngài phát nguyện:
36. Này! Khi ta chạm kiếm, đao này,
Thề nguyện trang nghiêm trước mặt ngài,
Hãy thả ta và ta thoát nợ,
Cứu xong danh dự, trở về đây.
Lúc ấy kẻ ăn thịt người nghĩ thầm: “Vua Sutasoma này thề chịu hình phạt nếu vi phạm luật lệ dòng Khattiya (Sát-đế-lỵ, võ tướng). Ta còn muốn gì với vị ấy nửa? À, ta cũng là một vua Sát-đế-lỵ. Ta sẽ lấy máu từ chính cánh tay mình và tế lễ thần cây. Đây thật là một chàng trai rất nhát gan”. Rồi y ngâm kệ:
37. Trước một La-môn, đã hứa lời,
Khi ngài trị nước với quyền oai,
Lời kia, ta phải bắt ngài giữ,
Danh dự cứu rồi, trở lại thôi.
Sau đó bậc Đại Sĩ nói:
-Này Hiền hữu, xin chớ phật lòng. Sau khi ta đã nghe bốn vần kệ kia, mỗi vần đáng giá một trăm đồng tiền, và dâng lễ cúng dường vị Pháp sư xong, ta sẽ trở lại vào lúc rạng đông.
Và ngài ngâm kệ này:
38. Trước một La-môn đã hứa lời,
Khi ta trị nước với quyền oai,
Lời kia ta ước mong gìn giữ,
Danh dự cứu xong, trở lại ngài.
Kẻ ăn thịt người đáp:
– Ngài đã thề chịu hình phạt nếu vi phạm phong tục của dòng Sát-đế-lỵ. Ngài hãy cẩn thận hành động cho đúng phép.
Ngài nói:
– Này hiền hữu ăn thịt người, ngài đã biết ta từ bé: trước kia ta chưa bao giờ nói dối dù để đùa chơi, còn nay ta đã được lên ngai vàng và biết điều phải trái thì sao ta nói dối được? Hãy tin ta, ta sẽ dâng lễ vật tế đàn cho hiền hữu.
Được thúc giục phải tin tưởng ngài, y đáp:
– Thôi được, Đại vương hãy ra đi, và nếu Đại vương không trở lại thì sẽ không có tế lễ và thần cây cũng không chấp nhận lễ nếu không có Đại vương. Vậy đừng làm trở ngại việc dâng lễ của ta.
Rồi y để bậc Đại Sĩ ra đi.
Giống như mặt trăng thoát khỏi móng vuốt của thần Rahu (La-hầu) và với sức mạnh của một chú voi còn trẻ, ngài nhanh chân về đến kinh thành.
Còn đám quân sĩ của ngài suy nghĩ: “Đại vương Sutasoma là bậc hiền trí và là vị Pháp sư tuyệt hảo. Nếu Ngài có thể nói một hai lời với y, ngài sẽ cảm hóa y và trở về như con voi dũng mãnh thoát khỏi mồm sư tử”. Rồi họ lại nghĩ: “Dân chúng sẽ khiển trách chúng ta và nói: Sau khi bỏ mặc đức vua của các ông cho kẻ ăn thịt người, các ông còn trở lại với bọn này ư?”
Vì thế họ cắm trại ngoài kinh thành và khi chợt thấy ngài từ xa đi đến, họ bước ra đón ngài, đảnh lễ ân cần và thưa:
– Tâu Đại vương, ngài không khiếp sợ kẻ ăn thịt người ấy ư?
Ngài đáp:
– Kẻ ăn thịt người ấy đã làm một việc khó khăn hơn bất cứ việc gì song thân ta đã làm. Là một kẻ hung tàn bạo ngược như vậy mà sau khi nghe ta thuyết Pháp, y đã để ta đi.
Sau đó, quân hầu trang điểm xiêm y cho ngài xong, đưa ngài lên lưng voi và hộ tống ngài về kinh. Khi thấy ngài, dân chúng hân hoan, và do lòng nhiệt thành của ngài đối với Pháp, ngài không đi viếng song thân mà lại nghĩ: “Ta sẽ thăm cha mẹ sau”, và ngài vào cung điện ngự lên ngôi báu.
Rồi ngài triệu vị Bà-la-môn đến, ra lệnh cạo râu cho ông, sau khi râu tóc được tỉa xong, ông được tắm rửa, xoa dầu thơm và phụ sức xiêm y lộng lẫy và họ đưa ông đến trước ngôi vua.
Khi vị Bà-la-môn đã được đưa vào yết kiến, chính vua Sutasoma cũng đi tắm gội, sau đó và ra lệnh đem ngự thiện của ngài dâng vị Bà-la-môn. Đến khi vị Bà-la-môn đã thọ thực xong, chính vua mới dùng phần ngự thiện ấy.
Sau đó, ngài đặt vị Bà-la-môn lên một bảo tọa và để tỏ lòng tôn kính, ngài cúng dường vị ấy các tràng hoa thơm cùng các lễ vật tương tự, rồi chính ngài ngự trên một bảo tọa thấp và thỉnh cầu vị kia:
– Thưa Tôn sư, chúng ta muốn nghe các vần kệ mà Tôn sư đã đem đến cho chúng ta.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ để làm sáng tỏ vấn đề:
39. Thoát tay tàn bạo, giết nhân dân,
Đến Đạo sĩ, người bạn thiết thân,
Ngài bảo: “Chúng ta đều ước muốn
Nghe bài thi kệ giá trăm đồng,
Nếu ngài chiếu cố ban lời dạy,
Lợi lạc chúng ta được hưởng phần”.
*
Khi Bồ-tát thỉnh cầu, vị Bà-la-môn liền rửa tay với nước hoa rồi rút ra một quyển sách đẹp từ túi xách, cầm sách cả hai tay và nói :
– Tâu Đại vương, xin hãy nghe bốn vần kệ của tiểu thần, mỗi vần đáng giá một trăm đồng tiền. Chúng đã được đức Phật Kassapa dạy cho tiểu thần. Chúng có đặc tính hủy diệt tham đắm, kiêu mạn và các ác hạnh tương tự, chúng tạo cho con người khả năng tiêu trừ dục vọng, an tịnh các căn, thậm chí đưa đến Niết-bàn có uy lực vĩnh cửu, đoạn diệt khát ái, chặt đứt vòng luân hồi và nhổ tận gốc chấp thủ.
Cùng với những lời này, ông nhìn vào sách và ngâm các vần kệ sau:
40. Hãy hòa hợp với Thánh hiền nhân,
Này hỡi So-ma, chỉ một lần,
Và chớ bao giờ thân kẻ ác,
Bình an tràn ngập khắp toàn thân.
41. Thường xuyên giao kết với hiền nhân,
Chỉ nhận hiền nhân chính bạn thân,
Học chánh lý từ bao bậc Thánh,
Mỗi ngày tu tập tốt thêm dần.
42. Như các xe vua khéo điểm trang
Cũng thành mờ nhạt, sẽ tan hoang,
Thân ta yếu đuối càng mòn mỏi,
Và phải chịu nhanh chóng lụi tàn.
Song Đạo Thánh hiền nhân vĩnh cửu,
Chẳng hề tàn tạ với thời gian,
Thiên nhân tuyên thuyết cùng người thiện
Qua các thời chưa được bảo ban.
43. Bầu trời giăng rộng rãi bao la,
Quả đất trải dài ở dưới ta,
Lãnh thổ bên kia bờ đại hải,
Chúng ta đều biết thật là xa.
Song còn vĩ đại hơn muôn vật,
Tầm mức ấy càng tỏa rộng ra
Là Đạo lý về điều thiện, ác
Người hiền, kẻ ác dạy cho ta.
*
Như vậy vị Bà-la-môn đã dạy ngài bốn vần kệ, mỗi vần trị giá một trăm đồng, đúng như trước kia đã được đức Phật Kassapa thuyết giảng, rồi ông ngồi yên lặng. Bậc Đại Sĩ rất hoan hỷ nghe kệ và bảo:
– Chuyến đi của ta về đây không phải là không được phần thưởng xứng đáng.
Rồi ngài suy nghĩ: “Những vần kệ này không phải chỉ là lời của một đệ tử hay một Thánh nhân, cũng không phải là tác phẩm của một thi sĩ, mà đó chính là do một đấng Toàn Tri Kiến nói ra; ta không biết chúng đáng giá ra sao. Dù ta có dâng toàn thế giới trải dài lên tận cõi trời Phạm thiên, sau khi chất đầy cả thế giới ấy với bảy báu vật, ta cũng không thể đền đáp xứng đáng những vần kệ này. Chắc chắn ta có thể trao vương quyền cho vị ấy tại kinh thành Indapatta rộng bảy dặm trong đất nước Kuru trải dài hơn ba trăm dặm này. Dĩ nhiên số phần vị ấy xứng đáng làm vua”.
Nhưng khi nhìn ông với khả năng tiên đoán tương lai của một người theo hình dáng bề ngoài, ngài không thấy các dấu hiệu như thế. Rồi ngài lại nghĩ đến ông với chức vụ đại tướng quân hay những chức vụ tương tự, nhưng cũng không thấy ông có tướng cầm đầu dù chỉ một ngôi làng nhỏ.
Kế đó, khi xem xét trường hợp hưởng thọ tài sản, bắt đầu từ mười triệu đồng, ngài thấy vị ấy đáng được hưởng bốn ngàn đồng, và nghĩ cách làm vinh dự vị ấy với chỉ số tiền này thôi, ngài ban tặng vị ấy bốn cái túi, một túi đựng một ngàn đồng tiền và bảo:
– Thưa Tôn sư, khi ngài dạy các vương tử khác những vần kệ này, ngài nhận được bao nhiêu?
-Tâu Đại vương, mỗi vần một trăm đồng vậy chúng chỉ đáng giá một trăm thôi.
Bậc Đại Sĩ bảo:
– Thưa Tôn sư, ngài không biết tính chất vô giá của món hàng mà ngài đem bán đâu. Từ nay phải xem là chúng đáng giá một ngàn đồng tiền.
Nói vậy xong, ngài ngâm kệ này:
44. Các kệ này không chỉ bốn trăm,
Đúng hơn, phải nói giá hàng ngàn,
Bốn ngàn đây, Đạo Sư, cầm lấy,
Đem chúng đi ngay, hãy vội vàng.
Sau đó ngài đưa vị ấy đến một cỗ xe êm ái và ra lệnh cho quan hầu:
– Hãy đưa vị Bà-la-môn này về nhà an toàn.
Rồi ngài bảo ông đi về. Lúc này có tiếng tung hô tán thán nổi lên cùng tiếng kêu lớn:
– Hoan hô! Hoan hô! Đại vương Sutasoma đã tôn vinh các vần kệ này rất trọng thể, khi nghĩ rằng mỗi vần kệ đáng giá một ngàn đồng tiền mà trước kia chỉ đáng giá một trăm.
Song thân của vua nghe tiếng ồn, hỏi chuyện gì, và khi nghe sự thật của việc ấy, do lòng tham lam, hai vị nổi giận với bậc Đại Sĩ. Còn ngài, sau khi cho vị Bà-la-môn ra về, liền đến thăm song thân và đảnh lễ hai vị. Sau đó, phụ vương bảo:
– Này vương nhi, con đã thoát khỏi tay của kẻ được xem là tướp cướp hung bạo.
Rồi thay vì lộ vẻ vui mừng khi thấy ngài, do lòng tham tiền, vua cha hỏi:
– Có thật chúng nói con ban bốn ngàn đồng tiền vì nghe bốn vần kệ chăng?
Khi nghe ngài thú nhận là đúng, vua cha ngâm kệ này:
45. Kệ thường mỗi khúc tám mươi đồng,
Hoặc đến một trăm, giá tận cùng,
Song hởi So-ma, nên tự chủ,
Một ngàn là giá kệ chưa từng!
Lúc ấy bậc Đại Sĩ muốn thúc giục vua cha nhìn sự vật theo cách khác, liền nói:
– Tâu phụ vương, chính là con không muốn tăng thêm tài sản, mà tăng thêm kiến thức thôi.
Và ngài ngâm các kệ này:
46. Con mong Thánh kiến cứ tăng dần,
Bầu bạn thiết thân với Thánh nhân,
Chẳng có sông nào đầy biển cả,
Thiện ngôn con học mãi không cùng.
47. Như lửa khát khao réo củi rơm,
Biển đòi sông, lạch đổ nhiều hơn,
Hiền nhân cũng vậy, tâu Hoàng thượng,
Khao khát nghe lời nói thiện chơn.
48. Từ miệng nô tỳ, nếu được nghe
Tối cao ý nghĩa kệ tràn trề,
Lời kia con nhận đầy cung kính,
Đạo lý thiện chân thỏa chẳng hề.
Sau khi nói vậy xong, ngài bảo:
– Xin phụ vương đừng chỉ vì tiền mà trách móc con. Con đã về đây, sau khi thề nguyền rằng con sẽ trở lại đó khi đã nghe Pháp xong. Nay con sẽ trở lại với quái nhân kia, xin phụ vương nhận lấy vương quyền.
Ngài trao chủ quyền cho phụ vương và ngâm kệ:
49. Đất nước của cha lắm bạc vàng,
Cân đai, quốc phục, lạc vô ngàn,
Sao còn khiển trách khi con bỏ
Dục lạc, chết vào tay sát nhân?
Lúc này tim vua cha nóng rực lên và ngài bảo:
– Này, vương nhi Sutasoma yêu quý, con nói gì thế? Cha sẽ đi cùng tất cả bốn đạo quân và sẽ bắt được kẻ cướp ấy.
Rồi ngài ngâm kệ:
50. Dũng sĩ đến đây bảo vệ ta!
Kẻ thì cỡi tượng, kẻ lên xa,
Bộ binh, kỵ mã đầy cung tiễn,
Thống lãnh đạo quân, giết địch nhà!
Lúc ấy phụ vương mẫu hậu ngài, mắt đẫm lệ, năn nỉ ngài:
– Này vương nhi, chớ đi, con không thể đi được.
Rồi mười sáu ngàn cung nữ ca múa cùng đám cận thần than khóc:
– Tâu Đại vương, sao Đại vương nở đến đó, bỏ chúng thần bơ vơ?
Và khắp kinh thành, không ai giữ được niềm xúc động, họ bảo nhau:
– Người ta nói ngài đã trở về đây sau khi đã hứa lời với kẻ ăn thịt người; giờ đây ngài đã nghe bốn vần kệ, mỗi vần đáng giá một trăm đồng, và đã bày tỏ lòng cung kính trọng thể đối với vị Pháp sư, cùng từ giã song thân, ngài sẽ quay lại lần nữa với kẻ ăn thịt người ấy.
Rồi cả kinh thành náo động dữ dội. Còn ngài khi nghe cha mẹ bảo thế, liền ngâm kệ này:
51. Hành động cừu nhân ăn thịt người
Bắt con, rồi thả, thật cao vời,
Khắc ghi thuở trước tình bằng hữu,
Đã hứa, làm sao con nuốt lời?
Ngài lại an ủi song thân:
– Phụ vương và mẫu hậu yêu quý, xin đứng lo âu vì con. Con đã làm một việc công đức, nên việc điều phục ngũ dục tham không phải là vấn đề khó khăn gì đâu.
Vừa từ giã song thân, ngài vừa khuyến giáo quần chúng và ra đi.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:
52. Lời khéo khuyên, từ biệt lão thân,
Chân thành nhắn nhủ cả quân, dân,
Giữ lời thệ ước, không lừa dối,
Vội trở về bên kẻ sát nhân.
*
Lúc ấy kẻ ăn thịt người suy nghĩ: “Nếu hiền hữu Sutasoma của ta muốn trở về, thì cứ để bạn trở về, không thể khác được, và mặc vị thần cây muốn làm gì tùy ý, còn ta sẽ giết các vương tử này và dâng tế lễ tế đàn bằng thịt của chúng với năm món ngon ngọt nữa”.
Thế rồi kẻ ấy chất đống củi hỏa thiêu và châm lửa, nghĩ rằng phải đợi cho đến khi than nóng đỏ lên. Trong lúc y ngồi mài cái xiên thịt thì Sutasoma đến.
Vừa thấy ngài, kẻ ăn thịt người vui mừng trong lòng, liền hỏi:
– Này Hiền hữu, bạn đã đi làm được những gì bạn muốn rồi chứ?
Bậc Đại Sĩ đáp:
– Thưa vâng, này Đại vương, ta đã nghe những vầng kệ do đức Phật Kassapa dạy vị Bà-la-môn kia, ta đã tỏ lòng tôn kính trọng thể đối với vị Pháp Sư và vì thế ta đã trở lại sau khi làm xong việc ta cần làm.
Để chứng minh điều này, ngài ngâm kệ:
53. Trước một La-môn đã hứa lời,
Khi ta trị nước với quyền oai,
Nay ta đã trọn lời thề ước,
Danh dự cứu xong, trở lại rồi.
Vậy hãy giết ta và tế lễ
Dâng thần cây gỗ của nhà ngài,
Hay là thỏa mãn lòng tham muốn
Độc ác bạo hung với thịt người!
Nghe lời vầy, kẻ ăn thịt người suy nghĩ: “Vua này không sợ, vị ấy nói lên với lòng đã xua tan mọi nỗi kinh hoàng chết chóc. Ta muốn biết uy lực này phát xuất từ đâu. Không thể có gì khác được. Vị ấy nói: “Ta đã nghe các vần kệ mà đức Phật Kassapa dạy bảo. Chắc hẳn uy lực siêu phàm này phát xuất từ đây. Ta sẽ bảo vị ấy ngâm kệ này cho ta nghe và do đó ta cũng sẽ thoát bất cứ nỗi sợ hãi nào”.
Khi đã quyết định như vậy xong, y ngâm kệ này:
54. Dù ta trì hoãn một hai ngày,
Lửa vẫn còn làm khói tỏa bay,
Chẳng mất quyền ăn mồi thịt ấy,
Thịt quay than nóng thật ngon thay!
Các vần kệ giá trăm đồng chẵn
Ngài hãy mau lên, đọc kệ ngay!
Nghe vậy, bậc Đại Sĩ suy nghĩ: “Kẻ ăn thịt người này là kẻ phạm tội ác. Ta sẽ khiển trách y đôi lời và làm y biết ô nhục vì những lời của ta”. Ngài liền bảo:
55. Kẻ ăn đồng loại, bạo tàn thay,
Thèm thịt, đã rơi khỏi chiếc ngai,
Vần kệ dạy cho ta Chánh lý,
Chánh, Tà phải kết hợp sau đây?
56. Với kẻ cướp hung ác bạo tàn,
Bàn tay đã nhúng máu đầy tràn,
Lợi gì Thánh kiến này đem đến,
Phát xuất từ đâu lẽ Chánh Chân
Cho dù được nghe nói các lời này, kẻ ăn thịt người cũng không tức giận. Vì sao vậy? Đó là do uy lực từ tâm của bậc Đại Sĩ. Vì thế y nói:
– Này Hiền hữu Sutasoma, chỉ một mình ta là bất chánh thôi sao?
Và y ngâm kệ:
57. Kẻ nọ đi săn bắt thú rừng
Để làm thành món thịt thơm lừng,
Và người kia giết người đồng loại
Lấy thịt bà con để nấu ăn,
Khi chết, cả hai đồng tội lỗi,
Sao riêng ta bị trách cùng hung?
Nghe vậy, bậc Đại Sĩ ngâm kệ này để phá tan tà kiến ấy:
58. Trong ngũ thú, loài có móng, răng,
Khôn ngoan, vương tử cứ dùng ăn,
Còn ngài ăn thịt đà kiêng kỵ,
Này Đại vương ôi, thật bạo hung!
Khi nghe lời khiển trách trên, y thấy không còn đường nào thoát được cả, liền cố tìm cánh che dấu tội lỗi của mình và ngâm kệ:
59. Thoát kẻ bạo hung nuốt thịt người,
Về cung, đầy mộng ước xinh tươi,
Sao còn nộp mạng cho cừu địch,
Ngài chắc tinh thông đạo lý trời?
Lúc ấy, bậc Đại Sĩ đáp:
– Này hiền hữu, một người như ta chắc hẳn phải thông thạo kiến thức truyền thống Khattiya (Sát-đế-lỵ: võ tướng, quý tộc). Ta hiểu rõ lắm chứ, nhưng ta không hướng dẫn hành động của ta theo đó.
Và ngài ngâm kệ:
60. Ai thông đạo Khat-ti-ya vầy,
Đều xuống ngục sâu sống đọa đày,
Ta vốn ghét căm truyền thống ấy,
Theo lời đã hứa, trở về đây.
Hãy làm tế lễ và ăn thịt
Ta trọn, Đại vương khủng khiếp này.
Kẻ ăn thịt người hỏi:
61. Đất rộng, cung đình, bò, ngựa, trâu,
Hương thơm, áo đẹp, lắm nàng hầu,
Đại vương đầy đủ bao điều ấy,
Chánh pháp ngài tìm hạnh phúc đâu?
Bồ-tát đáp lại:
62. Mọi lạc thú mà cõi thế gian
Tặng ta, chẳng có thú nào hơn
Niềm vui Chánh pháp ta tìm thấy:
Ẩn sĩ, La-môn vẫn trú an
Trong đạo Chánh chân và giải thoát
Tử sinh, bờ nọ đến an toàn.
Như vậy bậc Đại Sĩ đã thuyết giảng cho kẻ ấy về hạnh phúc trong Chánh pháp. Lúc ấy kẻ ăn thịt người, nhìn vào mặt ngài sáng rực rỡ như đóa sen nở hay vầng trăng tròn đầy, lại suy nghĩ: “Vua Sutasoma này thấy ta đang sửa soạn một đống than hồng và mài nhọn cái xiêng nướng thịt, tuy nhiên không hề tỏ ra chút mảy may sợ hãi. Có thể đây là thần lực của các vần kệ đáng giá một trăm đồng kia hay là nó phát xuất từ một chân lý nào khác? Ta sẽ hỏi vị ấy”. Và y ngâm kệ theo hình thức câu hỏi:
63. Thoát kẻ bạo hung nuốt thịt người
Về cung, tràn mộng ước xin tươi,
Sao còn trở lại thăm thù địch?
Vương tử chắc không sợ chết rồi,
Để giữ trọn lời ngài đã hứa,
Bỏ qua dục lạc ở trên đời.
Bậc Đại Sĩ đáp lại:
64. Ta phát nguyện làm muôn ngàn công đức,
Lễ dồi dào được danh tiếng lừng vang,
Đến đời sau, ta giữ thẳng con đường,
Ai sợ chết khi trú an Chánh pháp?
65. Ta phát nguyện làm muôn ngàn công đức,
Lễ dồi dào được danh vọng vẻ vang,
Không ăn năn, ta tiến đến thiên đàng,
Hãy tế lễ và xé mồi ăn thịt.
66. Song thân, ta đã thương yêu khắng khít,
Ta được khen cai trị tuyệt công bình,
Đến đời sau ta chọn lối quang vinh,
Ai sợ chết khi trú an Đạo giáo?
67. Song thân, ta đã phụng thờ chu đáo,
Ta được khen cai trị tuyệt công bình,
Không ăn năn, ta tiến đến thiên đình,
Hãy tế lễ và xé mồi ngon ngọt.
68. Ta phục vụ đám thân bằng quyến thuộc,
Cai trị công bình được mọi người khen,
Không ăn năn, ta chọn lối thăng thiên,
Hãy tế lễ và xé mồi ăn gấp.
69. Biết bao người, ta cúng dường cung cấp:
Bà-la-môn, đạo sĩ, thảy hân hoan
Đến đời sau, ta chọn lối thiên đàng,
Ai sợ chết khi trú an Chánh pháp?
70. Biết bao người, ta cúng dường cung cấp,
Bà-la-môn, đạo sĩ, thảy hân hoan,
Không ăn năn, ta tiến tới thiên đàng,
Hãy tế lễ và xé mồi ăn thịt.
Nghe vậy, kẻ ăn thịt người suy nghĩ: “Vua Sutasoma này là bậc thiện nhân tài trí: giả sử ta ăn thịt vị ấy, sọ đầu ta sẽ vỡ ra bảy mảnh, hoặc quả đất sẽ há miệng nuốt ta mất”, và y hoảng sợ nói:
– Này Hiền hữu, bạn không phải hạng người mà ta phải ăn thịt đâu.
Và y ngâm kệ:
71. Thuốc độc kẻ nào uống chủ tâm,
Độc xà hung bạo, lấy tay cầm,
Tan thành bảy mảnh ngay đầu nó,
Người chẳng dối lời, lại dám ăn!
Y nói với bậc Đại Sĩ như vầy:
– Ta chắc bạn như thể là thứ thuốc độc chết người, ai dám ăn bạn chứ?
Và nóng lòng muốn nghe các vần kệ, y van xin ngài ngâm kệ cho y. Nhưng khi muốn tỏ lòng cung kính cao trọng đối với đạo Thánh hiền, lời thỉnh cầu của y bị bậc Đại Sĩ từ chối vì lý do rằng y không phải là kẻ xứng đáng nhận vần kệ đầy đạo đức vẹn toàn như vậy, y tự nhủ: “Khắp cõi Diêm-phù-đề (Ấn Độ) không có vị hiền nhân nào như thế này, vì khi vị ấy thoát được tay ta, vị ấy đi về nghe kệ, và sau khi bày tỏ lòng cung kính trọng thể đối với vị Pháp sư, vị ấy trở lại đây với dấu hiệu thần chết in trên trán. Các vần kệ này chắc hẳn có giá trị siêu phàm”. Lòng y vẫn tràn đầy ước vọng cung kính nghe kệ ấy, y van xin bậc Đại Sĩ và ngâm kệ này:
72. Những người nghe giáo lý như chân,
Thiện, ác sẽ mau chóng biệt phân,
Có lẽ nếu nghe vần kệ ấy,
Tâm ta sẽ hỷ lạc vô ngần.
Lúc ấy bậc Đại Sĩ suy nghĩ: “Nay kẻ ăn thịt người mong muốn nghe kệ: ta sẽ ngâm kệ cho y”, và ngài nói:
– Thôi được, này hiền hữu, hãy lắng nghe thật kỹ.
Sau khi đã làm kia chú ý, ngài ngâm nga các vần kệ đúng như ngài đã được Bà-la-môn Nanda thuyết giáo, trong lúc chư Thiên thần ở sáu cõi trời Dục giới đều đồng thanh hô lớn và Thiên chúng đều hoan nghênh tán thán, bậc Đại Sĩ thuyết Pháp cho kẻ ăn thịt người như vầy:
73. Hãy hòa hợp với Thánh hiền nhân,
Này hỡi So-ma, chỉ một lần,
Và chớ bao giờ thân kẻ ác,
Bình an tràn ngập khắp toàn thân.
74. Thường xuyên giao kết với hiền nhân,
Chỉ nhận hiền nhân chính bạn thân,
Học chánh lý từ bao bậc Thánh,
Mỗi ngày tu tập tốt thêm dần.
75. Như các xe vua khéo điểm trang
Cũng thành mờ nhạt, sẽ tan hoang,
Thân ta yếu đuối càng mòn mỏi,
Và phải chịu nhanh chóng lụi tàn.
Song Đạo Thánh hiền nhân vĩnh cửu,
Chẳng hề tàn tạ với thời gian,
Thiên nhân tuyên thuyết cùng người thiện
Qua các thời chưa được bảo ban.
76. Bầu trời giăng rộng rãi bao la,
Quả đất trải dài ở dưới ta,
Lãnh thổ bên kia bờ đại hải
Chúng ta đều biết thật là xa.
Song còn vĩ đại hơn muôn vật,
Tầm mức ấy càng tỏa rộng ra
Là Đạo lý về điều thiện, ác
Người hiền, kẻ ác dạy cho ta.
Nhờ các vần kệ được bậc Đại Sĩ khéo ca tụng và cũng chính vì kẻ ăn thịt người có trí khôn ngoan, y nghĩ thầm: “Quả thật các vần kệ này là lời của đức Phật Toàn Tri kiến”. Và toàn thân y rúng động vì năm thứ hỷ lạc, y cảm thấy một niềm từ ái đối với Bồ-tát và nhìn ngài theo cách một người cha sẵn sàng ban chiếc lọng trắng của hoàng gia cho con mình. Rồi y lại nghĩ: “Ta không có tặng vật bằng vàng ròng để tặng Sutasoma, nhưng ta sẽ ban một điều ước cho mỗi vần kệ ấy”. Và y ngâm kệ:
77. Ý nghĩa chứa chan, giọng sáng trong,
Lọt tai, vương tử, các chân ngôn,
Tâm ta hoan hỷ, ta thích thú,
Muốn tặng bạn hiền bốn đặc ân.
Lúc ấy bậc Đại Sĩ lại quở trách y:
– Này quả thật còn điều ước nào bạn muốn ban cho ta nữa ư?
Và ngài ngâm kệ:
78. Người chẳng biết gì phận bản thân,
Điều lành, điều ác chẳng hề phân,
Chẳng phân địa ngục cùng thiên giới,
Nô lệ cho lòng dục hám ăn,
Sao kẻ đê hèn như bạn vậy
Biết ban ân huệ đến tha nhân?
79. Nếu bảo:”Cho ta ân huệ này”,
Rồi ngài lấy lại lời thề ngay,
Ai khôn ngoan muốn đành lòng chịu
Liều lĩnh phân tranh vậy hỡi ngài?
Kẻ ăn thịt người tự nhủ: “Vị ấy không tin ta. Ta muốn làm vị ấy tin”, rồi y ngâm kệ:
80. Chẳng ai đòi tặng một hồng ân,
Rồi lại nuốt lời hứa, giả nhân,
Bạo dạn chọn hồng ân, hỡi bạn,
Dù ta mất mạng, vẫn ban phần.
Lúc ấy bậc Đại Sĩ suy nghĩ: “Kẻ này nói như một vị anh hùng và hứa làm những gì ta nói, ta sẽ nhận lời đề nghị của y. Nhưng nếu ta chọn ngay điều ước đầu tiên là y phải chừa ăn thịt người, chắc y sẽ đau lòng lắm. Vậy trước hết ta sẽ chọn ba điều ước khác, sau đó sẽ chọn điều này”, và ngài ngâm kệ:
81. Ai kẻ sống cùng một Thánh nhân,
Thường xuyên đối diện với đồng tâm,
Vậy là người trí luôn tin chắc
Làm đẹp ý lòng bậc trí chân
Ta nguyện cầu ngài luôn tráng kiện,
Sống lâu đến cả một trăm năm,
Đây lời cầu nguyện đầu tiên vậy,
Ta muốn ngài ban tặng đặc ân.
Kẻ ăn thịt người nghe vậy, suy nghĩ: “Người này, dù ta đã đẩy ra khỏi vương quyền, nay vẫn cầu chúc trường thọ cho ta, một kẻ cướp lừng danh thèm khát thịt người và muốn làm hại vị ấy. Ôi! Thật là một người đầy thiện ý đối với ta”. Y thấy lòng hân hoan, mà không biết rằng lời ước này được chọn để đánh lừa y và sẽ có lợi cho ngài, y liền ngâm kệ ban lời ước:
82. Ai kẻ sống cùng một Thánh nhân,
Thường xuyên đối diện với đồng tâm,
Vậy là người trí luôn tin chắc
Làm đẹp ý lòng bậc trí chân.
Ngài nguyện cầu ta luôn tráng kiện
Sống lâu đến cả một trăm năm,
Trước lời cầu nguyện đầu tiên ấy
Hoan hỷ ta ban tặng đặc ân.
Tiếp theo, Bồ-tát nói:
83. Các vua bị bắt dưới tay ngài
Nhiều nước phong vương, quán đảnh rồi,
Những vị vua hùng trên cõi đất
Chớ nên ăn thịt, Đại vương ôi!
Đây là điều kế ta cầu khẩn
Như một lời nguyền ước thứ hai.
Như vậy trong khi lựa chọn đặc ân thứ hai ngài đã đạt ước nguyện đem lại mạng sống cho hơn một trăm vị vua Sát-đế-lỵ, và kẻ ăn thịt người ngâm kệ ban ngài điều ước ấy:
84. Các vua bị bắt dưới tay ta
Nhiều nước phong vương, quán đảnh xưa,
Những vua hùng mạnh, ta thề nguyện,
Ta sẽ không ăn thịt nữa mà.
Ước thứ hai này ta cũng tặng
Thể theo lời bạn nguyện cầu ta.
Như thể các vị vua ấy có nghe được những gì hai vị này nới chăng? Họ chẳng nghe được gì cả vì khi kẻ ăn thịt người châm lửa, và sợ khói lửa làm hại cây, y bước lùi một khoảng xa cây ấy. Bậc Đại Sĩ đàm luận với y, ngồi ở khoảng giữa cây và đống lửa, cho nên các vua không nghe mọi chuyện hai vị nói, mà chỉ nghe một phần và an ủi lẫn nhau:
– Thôi đừng sợ hãi, nay Sutasoma đang cải hóa kẻ ăn thịt người.
Lúc ấy bậc Đại Sĩ ngâm kệ:
85. Hơn trăm vua ấy bị ngài giam
Đều bị trói tay, lại khóc than,
Xin trả mỗi người về cố quốc,
Đệ tam ân huệ, ước ngài ban.
Như vậy trong khi chọn điều ước thứ ba, bậc Đại Sĩ xin cho các vị vua được phục hồi quê quán, mỗi vị về vương quốc mình. Tại sao vậy? – Bởi vì kẻ ăn thịt người kia, giả sử không ăn thịt họ, nhưng vì sợ các vua thù oán y, sẽ giam cầm họ lại và bắt họ ở trong rừng hoặc giết họ rồi phơi thây, hoặc đem họ ra vùng biên địa bán làm nô lệ. Do đó ngài chọn điều ước cho các vua phục hồi cố quốc, và kẻ ăn thịt người ngâm kệ chấp thuận lời thỉnh cầu này:
86. Hơn trăm vua ấy bị ta giam,
Đều bị trói tay, lại khóc than,
Ta sẽ phục hồi về cố quốc,
Đệ tam ân huệ được ta ban.
Bấy giờ Bồ-tát ngâm kệ chọn điều thứ tư:
87. Vương quốc hãi kinh, hóa dại cuồng,
Trốn ngài, dân chúng ẩn trong hang,
Thịt người, Chúa thượng, xin kiêng ky,
Ấy nguyện thứ tư, ước được ban.
Khi ngài nói vậy xong, kẻ ăn thịt người vỗ tay cười lớn:
– Này Hiền hữu Sutasoma, quả thật đây là điều bạn muốn nói không? Làm sao ta có thể ban cho bạn đặc ân này chứ? Nếu bạn muốn nhận một đặc ân khác, thì hãy chọn một điều nữa đi.
Rồi y ngâm kệ này:
88. Ta thấy món này, hợp vị ta,
Nếu ta ẩn náu chốn rừng già,
Làm sao lạc thú ta kiêng kỵ,
Nguyện ước thứ tư, chọn lại mà!
Lúc ấy bậc Đại Sĩ nói:
– Vì ngài thích thịt người nên ngài nói: “Ta không thể từ bỏ nó được”. Người nào làm ác chỉ vì thú vui thì thật là kẻ ngu si.
Và ngài ngâm kệ:
89. Vua chúa như ngài chẳng được chơi,
Hy sinh cuộc sống chỉ vì vui.
Hãy tìm ý nghĩa cao siêu nhất
Cuộc sống tặng ban quý tuyệt vời
Lạc thú vị lai đời kế tiếp
Rồi ngài hưởng phước đức này thôi.
Khi những lời này được bậc Đại Sĩ nói xong, kẻ ăn thịt người bị nỗi kinh hoàng trấn áp và suy nghĩ: “Ta không thể từ chối lời ước mà Sutasoma lựa chọn, cũng không thể chừa ăn thịt người. Vậy ta phải làm gì đây?”
Với đôi mắt đẫm lệ, y ngâm kệ này:
90. Ngài biết ta yêu thích thịt người,
Su-ta Đại Sĩ, thế này thôi,
Ta không bỏ nó bao giờ nữa,
Suy nghĩ, chọn điều khác, bạn ôi!
Bồ-tát lại đáp:
91. Người nào luôn hưởng thú vui chơi,
Hủy diệt cuộc đời để được vui,
Như kẻ say dùng liều thuốc độc,
Về sau phải chịu khổ không nguôi.
92. Người quyết tâm chừa lạc thú đời,
Con đường phận sự khó theo hoài,
Như người đau uống liều điều trị,
Sống lại đời sau cực lạc thôi.
Sau khi ngài nói vậy xong, kẻ ăn thịt người đau đớn khóc than, ngâm vần kệ:
93. Ngũ lạc phát sinh tự giác quan,
Ta đều từ bỏ cả song thân,
Ta vào rừng ở vì nhân ấy,
Lời bạn ước sao có thể ban?
Bậc Đại Sĩ ngâm kệ đáp:
94. Trí nhân không thể nói hai lời,
Ta biết thiện nhân đúng ước thôi:
“Hiền hữu chọn đi vài nguyện ước”
Là điều ngài đã bảo ta rồi,
Giờ đây những chuyện ngài đang nói
Khó hợp điều này, Chúa thượng ôi!
Một lần nữa, kẻ ăn thịt người vừa khóc vừa ngâm kệ:
95. Tổn đức, ô danh, khổ nhục tràn,
Tham lam, tà hạnh, tội muôn vàn,
Ta đều phạm, để ăn đồng loại,
Lời bạn ước, sao ta phải ban?
Bậc Đại Sĩ lại nói:
96. “Không ai đòi tự nguyện ban ân,
Rồi lấy lại lời, kẻ giả nhân,
Bạo dạn chọn ân này, bạn hỡi,
Dù ta mất mạng, cũng ban phần.
Khi ngài đã đưa ra vần kệ do chính kẻ ăn thịt người cảm khái thốt lên trong giai đoạn đầu, ngài lại ngâm kệ để khích lệ y can đảm ban điều ước ấy:
97. Thiện nhân đành mất cả dòng đời
Song giữ lời xưa, dẫu thiệt thòi,
Chúa thượng, nếu ngài ban ước nguyện,
Làm ngay chuyện ấy trọn công ngài.
98. Ai đem tài sản cứu tay chân,
Sẽ bỏ tay chân cứu lấy thân,
Tài sản, tứ chi, thân sẽ mất,
Chỉ còn Chân lý khẩn cầu ân.
Như vậy bậc Đại Sĩ dùng nhiều phương tiện an trú kẻ ăn thịt người vào Chánh pháp, và bây giờ ngài ngâm kệ để giải thích việc cần phải tôn trọng danh hiệu của ngài:
99. Miệng kẻ nào minh chứng Thật chân,
Đoạn nghi nhờ các bậc hiền nhân,
Kẻ ấy chính là nơi ẩn trú,
Chính là điểm tựa, chốn nương thân.
Lòng hiền nhân mến thương người ấy
Sẽ chẳng bao giờ phải diệt vong.
Sau khi ngâm kệ xong, ngài bảo:
– Này Hiền hữu ăn thịt người, nếu bạn vi phạm lời dạy của một bậc Đạo Sư Tối thắng như vậy, thì thật không hợp lẽ phải, và hơn nữa, khi bạn còn trẻ, ta đã làm vị trợ giáo cho bạn, đã chỉ bảo bạn nhiều rồi, nay ta dùng uy lực của một bậc Giác Ngộ ngâm cho bạn nghe các vần kệ trị giá mỗi vần một trăm đồng: vậy bạn hãy vâng lời ta.
Khi nghe vậy, kẻ ăn thịt người suy nghĩ: “Sutasoma đã là thầy dạy ta, vừa là bậc đa văn uyên bác và ta đã ban cho vị ấy chọn điều ước. Ta phải làm gì đây? Cái chết quả thật là một sự dĩ nhiên trong cuộc đời mỗi người. Vậy ta sẽ không ăn thịt người nữa nhưng phải ban ân huệ mà ngài yêu cầu”.
Với dòng lệ tuôn tràn từ đôi mắt, y đứng lên và quỳ xuống chân Sutasoma, ngâm kệ ban ân:
100. Thực phẩm ngọt ngon, thú vị thay,
Vì duyên cớ ấy, ẩn rừng cây,
Nhưng nay bạn bảo ta làm vậy,
Ta tặng bạn – thầy ân huệ đây.
Lúc ấy bậc Đại Sĩ nói:
– Này Hiền hữu, mong được như vậy. Đối với người đã đứng vững vàng trong giới hạnh, thì ngay cái chết cũng là một ân huệ. Thưa Đại vương, ta xin nhận đặc ân mà ngài đã ban ta. Ngay từ hôm nay, ngài được an trú trong con đường của một bậc Đạo Sư hướng dẫn, và vì vậy, ta xin ngài một đặc ân này nữa: nếu ngài có lòng thương mến ta, xin ngài chấp nhận Ngũ giới.
Y đáp:
– Tốt lành thay, xin Hiền hữu dạy ta Ngũ giới.
– Xin Đại vương học Ngũ giới từ ta.
Thế rồi y đảnh lễ bậc Đại Sĩ với năm phần thân thể sát đất và ngồi xuống một bên, và bậc Đại Sĩ an trú y vào Ngũ giới.
Lúc ấy các địa thần tụ họp lại, bảo nhau:
– Không ai từ các chúng sinh trong địa ngục Avìci (A-tỳ: Vô gián) đến chư Thiên tối cao trong các cõi Vô sắc mà vì lòng thương mến đối với bậc Đại Sĩ, có thể làm cho kẻ ăn thịt người này từ bỏ việc sát nhân ấy. Ôi! Sutasoma đã thị hiện một phép thần thông vị diệu thay?
Các vị hoan nghênh làm rừng cây vang dội với những tiếng reo hò lớn, và khi nghe huyên náo, Tứ Đại Thiên vương cũng reo lớn như vậy toàn thế giới vang rền tiếng tán thán đến tận cõi Phạm thiên.
Các vị vua bị treo trên cành cây nghe tiếng náo động reo mừng của chư Thần, và nữ thần cây vẫn còn đứng ở nơi trú ẩn cũng thốt ra âm thanh hưởng ứng. Như vậy người ta nghe tiếng reo hò của các vị Thần, nhưng không thể thấy được hình dáng các vị.
Khi nghe tiếng reo lớn hoan nghênh của chư Thần, các vị vua suy nghĩ: “Nhờ Sutasoma chúng ta được cứu mạng, Sutasoma đã thị hiện phép thần thông để giáo hóa kẻ ăn thịt người ấy”, và các vị cũng dâng lên lời tán tụng Bồ-tát.
Còn kẻ ăn thịt người đứng sang một bên sau khi đảnh lễ dưới chân Bồ-tát. Bậc Đại Sĩ bảo y:
– Này Hiền hữu, hãy thả các vương tử này.
Y suy nghĩ: “Ta là kẻ thù của họ. Nếu họ được ta thả ra, họ sẽ nói: “Hãy bắt y, y là kẻ thù của chúng ta”, và sẽ làm hại ta. Nhưng dù có mất mạng sống, ta cũng không thể phạm vào giới hạnh mà ta đã nhận từ tay Sutasoma. Ta sẽ đi cùng ngài và thả họ ra, như thế ta sẽ được bình an”. Rồi vừa đảnh lễ Bồ-tát, y vừa nói:
– Này Sutasoma, chúng ta hãy cùng đi thả các vương tử.
Và y ngâm kệ:
101. Ngài là thầy giáo của riêng ta,
Cùng với bạn thân, chỉ một mà.
Hãy ngắm, thưa ngài, lời bạn bảo
Ta vừa mới thực hiện bây giờ.
Lượt ngài thực hiện lời ta bảo:
Ta sẽ đi cùng thả các vua.
Bồ-tát đáp:
102. Ta là thầy giáo của ngày xưa
Cùng với bạn thân, chỉ một mà.
Quả thật, thưa ngài, lời dạy bảo
Ngài vừa mới thực hiện bây giờ.
Lượt ta thực hiện lời ngài bảo:
Ta sẽ cùng đi thả các vua.
Khi đến gần các vua kia, ngài nói:
103. Các ngài bị trói trên cây này,
Nước mắt chảy tuôn đã ngập đầy,
Vì ác quỷ này làm hại vậy,
Song ta vẫn muốn các ngài hay
Một lời ước hẹn cùng vua ấy
Chẳng có bao giờ đụng ngón tay.
Các vị vua đáp liền:
104. Khóc than vì bị trói trên cây,
Ác quỷ hại người, đáng ghét thay,
Tuy thế, chúng ta long trọng hứa:
Nếu còn sống, chẳng hại người này.
Lúc ấy Bồ-tát nói:
– Tốt lành thay, xin hãy hứa lời này với ta.
Và ngài ngâm kệ:
105. Như với bầy con, bậc mẹ cha
Tỏ tình yêu thắm thiết, bao la,
Ước mong vua ấy luôn minh chứng
Là một người cha đúng nghĩa mà.
Mong ước các ngài như lũ trẻ
Thương yêu vua ấy thật sâu xa.
Các vị vua cũng đều đồng ý việc này và ngâm kệ:
106. Như với bầy con, bậc mẹ cha
Tỏ tình yêu thắm thiết, bao la,
Ước mong vua ấy luôn minh chứng
Là một người cha đúng nghĩa mà.
Mong ước chúng ta như lũ trẻ
Thương yêu vua ấy thật sâu xa.
Như vậy bậc Đại Sĩ đã đòi các vị ấy thề ước xong, ngài gọi kẻ ăn thịt người đến và bảo:
– Hãy đến thả các vương tử này ra.
Kẻ ăn thịt người cầm kiếm cắt dây trói một vua trong số đó. Vì vua này đã nhịn ăn suốt bảy ngày cùng chịu đau khổ đến điên cuồng, nên vừa được cắt dây thả ra, vị ấy ngã nhào xuống đất. Bậc Đại Sĩ thấy vậy động lòng từ bi, liền nói:
– Này Hiền hữu ăn thịt người, đừng cắt dây thả họ xuống như vậy.
Rồi ôm lấy một vị vua thật chặt trong đôi tay, ngài ôm sát vị ấy vào ngực mình và nói:
– Bây giờ hãy cắt dây đi.
Như vậy, kẻ ăn thịt người cắt dây trói họ với thanh kiếm và bậc Đại Sĩ, nhờ có sức mạnh phi thường, liền ôm mỗi vị vua vào ngực, và đưa xuống nhẹ nhàng như thể đó là con mình, rồi đặt vị ấy nằm sát xuống đất. Cứ vậy ngài đặt tất cả các vị vua xuống đất và sau khi rửa các vết thương, ngài nhẹ nhàng kéo các dây trói khỏi tay họ, giống như thể sợi dây ở tai trẻ con, ngài chùi sạch máu đông, làm cho các vết thương không nhiễm độc. Rồi ngài bảo kẻ ăn thịt người:
– Này Hiền hữu, hãy giã một ít vỏ cây kia trên hòn đá rồi mang đến cho ta.
Sau khi ngài bảo y đi tìm vỏ cây về, ngài thực hiện một lời Thề Chân lý và chà xát lòng bàn tay các vua ấy, thì các vết thương lành lặn ngay lập tức.
Kẻ ăn thịt người lấy một ít gạo đã chà vỏ, nấu thành một thứ thuốc phòng bệnh, rồi hai vị đưa cho một trăm lẻ một vương tử Sát-đế-lỵ uống như thuốc phòng bệnh, vì vậy mọi người đều hân hoan vừa lúc mặt trời lặn.
Hôm sau, vào lúc rạng đông, giữa trưa và xế chiều, hai vị đều cho họ uống nước cháo, nhưng ngày thứ ba, hai vị cho họ ăn cháo gạo và cơm chín, cứ thế cho đến khi họ bình phục. Sau đó bậc Đại Sĩ hỏi xem họ đủ mạnh hẳn đề về nhà chưa và khi họ đáp họ có thể lên đường, ngài bảo:
– Này, Hiền hữu ăn thịt người, chúng ta cùng đi về vương quốc của mình.
Nhưng y vừa khóc, vừa quỳ xuống chân bậc Đại Sĩ và kêu to:
– Xin Hiền hữu đem các vua này ra đi, còn ta sẽ tiếp tục ở đây sống bằng củ quả rừng.
– Này Hiền hữu, bạn muốn làm gì ở đây thế?
Vương quốc bạn là nơi đầy lạc thú. Hãy đi về cai trị ở Ba-la-nại.
– Này Hiền hữu nói gì thế? Ta không thể về đó được. Toàn dân kinh thành đều là kẻ thù của ta. Họ sẽ phỉ báng ta và nói: “Kẻ này đã ăn thịt mẹ, cha ta, hãy bắt tên cướp này”, và họ sẽ lấy hòn đất đoạt mạng sống ta, nhưng còn ta đã quyết nhờ Hiền hữu an trú vào Ngũ giới, ta không thể giết ai được cả, cho dù để cứu mạng mình. Ta không muốn đi đâu. Vì ta từ bỏ thói ăn thịt người, ta sẽ sống bao lâu nữa đây? Và giờ đây ta cũng sẽ không còn thấy Hiền hữu nữa.
Kẻ ấy vừa khóc vừa nói:
– Thôi bạn hãy ra đi.
Bậc Đại Sĩ vỗ lưng y và bảo:
– Này Hiền hữu, ta tên là Sutasoma: trước đây ta vừa cải hóa một người độc ác như bạn, và nếu bạn hỏi bạn sẽ phải kể chuyện gì ở Ba-la-nại, tại sao ta muốn an trú bạn ở đó, hoặc chia đôi vương quốc của ta, thì ta sẽ giao bạn một nửa đất nước ấy.
– Trong kinh thành của bạn cũng có những kẻ thù của ta. – Y đáp.
Sutasoma nghĩ thầm: “Khi vâng lời ta, người này đã hoàn thành một nhiệm vụ thật khó khăn. Vậy ta phải dùng phương tiện nào đó đưa y về cảnh vinh quang ngày trước”.
Và để chiêu dụ y, ngài ca tụng cảnh huy hoàng vĩ đại trong kinh thành của y như sau:
107. Thú vật, chim muông, đủ mọi nơi,
Ngày xưa thịt của chúng ngài xơi
Do đầu bếp khéo tài đun nấu,
Thật đúng cao lương vị tuyệt vời
Tạo nỗi hân hoan như Đế Thích
Hưởng bao tiên thực ở trên trời.
Tại sao ngài bỏ rơi tất cả,
Tìm lạc thú rừng vắng lẻ loi?
108. Cung nữ cao sang, dáng mảnh mai,
Xiêm y lộng lẫy khoác hình hài,
Chung quanh Chúa thượng ngày xưa ấy,
Cả đám vây quanh chật ních người,
Như Đế Thích trong Thiên chúng nọ,
Ngài đi, lòng hạnh phúc vui tươi,
Sao ngài lìa bỏ đời như vậy,
Tìm lạc thú rừng vắng lẻ loi?
109. Giữa vương sàng rộng rãi mênh mông,
Ngài ngự, ngày xưa, hỡi Chúa công,
Nhiều lớp chăn màn lông thú quý,
Chất lên cao phủ cả mình rồng,
Dưới đầu ngài gối màu hồng thắm,
Giường nệm sạch tinh, trắng tựa bông,
Sao lại giã từ tất cả vậy,
Tìm vui đơn độc ở trong rừng?
110. Nơi kia nhiều lúc giữa đêm thanh,
Ngài vẫn thường nghe tiếng trống canh,
Và những âm thanh siêu thế tục
Vẫn thường vang dội đến tai mình,
Lời ca, tiếng nhạc đồng hòa điệu,
Khơi dậy tâm tư rộn rã tình.
Sao lại giã từ tất cả vậy,
Tìm vui đơn độc giữa rừng xanh
111. Ngài có hoa viên đẹp đắm say,
Nơi kia phong phú cỏ hoa đầy,
Mi-gà vốn đã từng danh tiếng
Là chốn ngự viên, đô thị này,
Xa pháo dập dìu vô số kể,
Ngựa, voi lũ lượt đứng từng bầy,
Sao ngài lại bỏ rơi tất cả,
Tìm thú rừng hoang cô độc vầy.
Bậc Đại Sĩ suy nghĩ: “Có lẽ khi người này nhớ lại hương vị các món cao lương mà y đã thưởng thức ngày xưa, y sẽ mong muốn trở về với ta”. Vì thế ngài chiêu dụ y trước tiên bằng thức ăn, kế đó là lôi cuốn các sắc dục của y, thứ ba là ý nghĩ về sàng tọa, thứ tư là ca múa nhạc, thứ năm là gợi lại ngự viên và kinh thành.
Ngài làm cho kẻ ấy mê mẩn với những ý tưởng trên rồi nói:
– Thưa Đại vương, ta sẽ đi cùng ngài về Ba-la-nại và ổn định ngài tại đó xong, ta mới trở về vương quốc ta. Nhưng nếu chúng ta thất bại trong việc ổn định vương quốc Ba-la-nại, thì ta sẽ tặng bạn một nữa giang sơn của ta. Ngài còn làm gì với cuộc sống ở rừng nữa chứ” Chỉ cần làm theo lời ta dặn ngài là được.
Sau khi nghe lời ngài, kẻ ăn thịt người nôn nóng đi với ngài và suy nghĩ: “Sutasoma mong muốn ta an lạc quả thật là người đầy nhân từ. Trước tiên ngài đã an trú ta trong giới đức, nay lại bảo sẽ phục hồi vinh quang cũ cho ta và ngài có khả năng làm việc đó. Ta cần phải đi với ngài. Ta còn làm gì với rừng hoang nữa chứ?”
Lòng đầy hoan hỷ, y ước mong ca ngợi Sutasoma về đức hạnh của ngài, liền nói:
– Này Hiền hữu Sutasoma, không gì tốt đẹp hơn kết giao với bạn hiền, không gì xấu xa hơn kết giao với bạn ác.
112. Giống như trong nửa tháng đêm đen,
Mặt nguyệt mỗi ngày một khuyết thêm,
Cũng vậy kết giao cùng kẻ ác
Chịu bao hủy hoại, hỡi vua hiền!
113. Như ta kết bạn hỏa đầu quân,
Kẻ tối liệt trong bọn hạ tầng,
Ta đã phạm vào bao ác nghiệp
Kịp thời xuống địa ngục đày thân.
114. Ví như trong nửa tháng trời quang,
Mặt nguyệt ngày thêm một sáng dần,
Cũng vậy, kết giao cùng bậc thiện,
Đại vương ôi, sẽ chẳng suy tàn.
115. Như với bạn, ta được kết đôi,
Này Su-ta, phải biết ngay thôi:
Sau khi thành tựu điều chân chánh,
Tất cả an vui đến cõi trời.
116. Như lũ lụt tràn mặt đất khô,
Thấy thường tạm bợ, chóng trôi qua,
Cũng vầy kết bạn cùng người ác
Là việc phù du, nước nổi mà.
117. Song nước lụt tràn khắp hải dương
Thấy bền lâu ấy chuyện bình thường
Cũng như giao kết cùng người thiện,
Là chuyện lâu dài, hỡi Đại vương.
118. Giao kết thiện nhân chẳng chóng qua,
Tình huynh đệ vững suốt đời ta,
Kết giao kẻ ác mau tàn lụi,
Kẻ ác thường đi lạc hướng tà.
Như vậy kẻ ăn thịt người ca tụng bậc Đại Sĩ qua bảy vần kệ trên. Còn ngài đem kẻ ấy và các vua kia đi đến một làng biên địa. Khi thấy bậc Đại Sĩ, quần chúng vào kinh thành thông báo việc ấy. Quần thần của vua đi cùng một đạo quân hộ tống bậc Đại Sĩ và ngài cùng đoàn tùy tùng này vào vương quốc Ba-la-nại.
Trên đường đi, dân chúng mang quà đến tháp tùng ngài, thế rồi cả đám đại chúng theo ngài đến Ba-la-nại.
Thời ấy vương tử của kẻ ăn thịt người đang làm vua và Kàlahatthi vẫn là đại tướng quân, nên dân kinh thành đến trình vua việc này:
– Tâu Đại vương, nhiều người kể với chúng thần rằng vua Sutasoma đã giáo hóa kẻ ăn thịt người và đang đến đây với y, chúng thần không muốn cho phép y vào kinh thành đâu.
Họ vội vàng đóng cổng thành và đứng đó với binh khí trong tay. Khi thấy cổng thành đã đóng, bậc Đại Sĩ để kẻ ăn thịt người và một trăm lẻ một vua kia ở lại rồi cùng với vài cận thần đi kêu lớn:
– Ta là vua Sutasoma, hãy mở cổng ngay.
Các tướng lãnh đi tâu trình vua và vua ra lệnh mở cổng thành lập tức để bậc Đại Sĩ vào thành. Vua cùng vị đại tướng Kàlahatthi ra nghênh tiếp ngài và đưa ngài cùng lên thượng lầu của cung điện.
Bậc Đại Sĩ an tọa trên ngai vàng, triệu tập bà chánh hậu của kẻ ăn thịt người cùng cả đám cận thần đến, rồi ngài bảo Kàlahatthi:
– Này Kàlahatthi, tại sao khanh không cho vua ấy vào thành?
Vị này đáp:
– Đó là một kẻ cùng hung cực ác, trong khi làm vua cai trì kinh thành này, đã ăn thịt nhiều người, làm điều phi pháp đối với các vị vua Sát-đế-lỵ và làm tan nát toàn cõi Diêm-phù-đề: đó là lý do khiến chúng thần hành động như vậy.
Ngài đáp:
– Các khanh chớ nghĩ rằng bây giờ kẻ ấy còn hành động như thế nữa. Ta đã giáo hóa y và an trú y vào giới đức. Y sẽ không làm tổn hại ai cho dù để cứu mạng mình đi nữa. Các khanh không còn gì nguy hiểm do y gây ra cả, vậy các khanh đừng hành động như thế. Thực ra các con phải chăm sóc cha mẹ: ai yêu quý cha mẹ sẽ lên thiên giới, còn các người khác sẽ xuống địa ngục.
Ngài khuyên răn vương tử như thế, trong lúc vị ấy ngồi trên một bảo tọa thấp bên cạnh ngài. Rồi ngài giáo huấn vị đại tướng:
– Này Kàlahatthi, khanh là bạn thân cũng là tùy tướng của vua, ngày trước khanh đã được vua phong quyền cao chức trọng, vậy khanh cũng phải hành động vì quyền lợi của vua.
Ngài lại khuyến giáo vương hậu:
– Này vương hậu, bà xuất thân dòng quý tộc và tự tay vua bà đã đạt ngôi vị chánh hậu, lại đầy đủ con trai con gái với vua ấy. Vậy bà cũng phải hành động vì quyền lợi của vua.
Rồi ngài thuyết giảng Chánh pháp để đưa vấn đề này lên hàng đầu:
119. Không vua nào được quyền chinh phục
Người chẳng nên xâm phạm suốt đời;
Không bạn nào nên lừa dối bạn
Bằng hành vi bội bạc tình người.
120. Nàng nào có ý sợ phu quân,
Ta bảo chẳng là vợ chánh chân;
Khi phụ thân già không cấp dưỡng,
Làm con chẳng đúng với danh xưng.
121. Chẳng phải là nơi chốn hội trường,
Nếu hiền nhân chẳng vãng lai luôn,
Những ai không giảng bày Chân lý
Rộng khắp, chẳng là bậc trí nhân.
122. Những bậc ly tham dục, hận sân,
Si mê, là những Thánh hiền nhân
Chẳng hề quên giảng bày Chân lý
Cho các thế nhân khắp mọi vùng.
123. Bậc hiền ở giữa đám ngu đần,
Nếu lặng thinh, ai biết trí nhân,
Vị ấy nói lên thì tất cả
Nhận ra Thầy dạy Pháp như chân.
124. Thuyết giảng, tôn vinh Pháp chánh chân,
Giương cao cờ hiệu của hiền nhân,
Thánh nhân biểu tượng là lời thiện,
Ngài phất ngọn cờ Chánh pháp luôn.
Vua và vị đại tướng nghe ngài thuyết Chánh pháp đều rất hoan hỷ, liền nói:
– Chúng ta hãy đi rước Đại vương về đây.
Sau khi truyền đánh trống báo cáo khắp kinh thành, hai vị triệu tập dân chúng lại và bảo:
– Đừng sợ nữa, chúng ta nghe tin đức vua đã được an trú vào Chánh pháp. Chúng ta hãy đi đón ngài về đây.
Thế rồi hai vị cùng quần chúng được bậc Đại Sĩ dẫn đầu đi đảnh lễ vua kia. Họ đưa các thợ cạo đến và khi tóc râu được cạo sạch xong, vua ấy tắm rửa, mặc xiêm y sang trọng vào, họ đặt vua ngồi trên một đống bảo ngọc, làm lễ quán đảnh (rảy nước phong vương), rồi rước vua vào thành.
Vị vua ăn thịt người làm lễ cung kính chào một trăm lẻ một vua Sát-đế-lỵ và bậc Đại Sĩ. Khắp nước Diêm-phù-đề chấn động vì tin loan truyền rằng Sutasoma, chúa thượng của loài người, đã giáo hóa kẻ ăn thịt người kia và phục hồi vương vị cho y.
Còn dân chúng thành Indapatta dâng sớ cầu xin vua trở về. Bậc Đại Sĩ ở lại đó đúng một tháng và thuyết giáo vua kia:
– Này Hiền hữu, chúng ta sắp ra đi, hãy chăm lo tinh cần làm thiện pháp và truyền xây năm bố thí đường ở các cổng thành và tại cung vua, tuân hành Thập vương pháp (mười đức tính của vua hiền) và tránh xa ác đạo.
Rồi tứ một trăm lẻ một kinh thành, các đạo quân đông đảo tụ tập lại, cùng với đoàn hộ tống này, ngài lên đường về Ba-la-nại. Vị vua ăn thịt người cũng tiễn đưa ngài đến nửa đường thì dừng lại. Bậc Đại Sĩ tặng ngựa cho những ai không có ngựa để cỡi rồi cho phép tất cả ra đi. Họ trao đổi những lời từ giã thân tình với ngài và sau các nghi lễ ôm nhau thắm thiết, họ trở về xứ sở riêng của mỗi người.
Bậc Đại Sĩ cũng đến thành Indapatta trong cảnh uy nghi trọng thể, kinh thành ấy được dân chúng trang hoàng giống như kinh thành của chư Thiên. Sau khi cung kính đảnh lễ song thân, và bày tỏ nỗi hân hoan được gặp lại cha mẹ, ngài đi lên thượng lầu của hoàng cung.
Trong thời gian thực hành nền cai trị chân chánh tại vương quốc, tư tưởng này chợt nảy ra trong trí ngài: “Vị thần cây thật ích lợi cho ta; ta muốn vị ấy được cúng dường lễ vật”.
Vì thế ngài truyền xây một hồ nước rộng ở gần cây đa và di chuyển nhiều gia đình đến đó dựng một ngôi làng. Chẳng bao lâu nó trở thành một vùng rộng lớn có được tám mươi ngàn tiệm buôn.
Và bắt đầu từ mút xa nhất của các cành cây, ngài bảo san bằng mặt đất quanh gốc cây và xây một hành lang bao bọc có các cửa vòng cung và cổng ra vào thế là thần cây được lợi lộc.
Chính nhờ việc thiết lập ngôi làng trên địa điểm quỷ ăn thịt người được giáo hóa, vùng ấy trở thành thị trấn với tên là Kammàsadamma (Kiềm-ma-sắc-đàm: Nơi có quỷ ăn thịt người).
Còn các vị vua kia tuân theo lời giáo huấn của bậc Đại Sĩ, thực hành các thiện sự như bố thí và nhiều việc khác, nên về sau được lên thiên giới.
*
Đến đây, bậc Đạo Sư chấm dứt Pháp thoại và nói:
– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ Ta mới cải hóa Angulimàla, mà ngày xưa nữa, vị ấy cũng được ta cải hóa.
Và Ngài nhận diện Tiền thân:
– Thời ấy vị vua ăn thịt người là Angulimàla (Người đeo vòng ngón tay), đại tướng Kàlahatthi là Sàriputta (Xá-lợi-phất), Bà-la-môn Nanda là Ànanda (A-nan), thần cây là Kassapa (Ca-diếp), Sakka Thiên chủ là Anuruddha (A-na-luật-đà), quần thần của các vua là hội chúng của đức Phật, song thân của vua là các vị trong hoàng gia của Đại vương, và vua Sutasoma trong chuyện chính là Ta.
Giáo sư Trần Phương Lan dịch Việt
Nguồn: thuvienhoasen.org